Skip to content

Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Lời nói đầu

大佛頂首楞嚴經

LỜI NÓI ĐẦU


Chư Phật ra đời chỉ nhằm một mục đích là dạy bảo chỉ bày cho chúng sanh Giác ngộ và thật chứng Pháp giới tánh như Phật. Pháp giới tánh là tánh bản nhiên của tất cả sự vật, nghĩa là của tất cả các chuyển động và các hiện tượng trong vũ trụ.

Tánh bản nhiên ấy là tánh “trùng trùng duyên khởi”, nghĩa là tánh ảnh hưởng dây chuyền của một sự vật đối với tất cả sự vật, của tất cả sự vật đối với một sự vật. Ví như một con cá nhỏ vẫy đuôi, tuy rung động rất ít, nhưng nếu có khả năng đo lường chính xác, thì cũng có thể thấy ảnh hưởng cùng khắp bốn bể.

Do mỗi sự vật đều chịu ảnh hưởng của tất cả sự vật nên đều chuyển biến không ngừng. Do mỗi sự vật chuyển biến không ngừng nên ảnh hưởng lại tất cả sự vật đều chuyển biến không ngừng. Song ảnh hưởng của các loại sự vật đối với một sự vật không giống nhau, cái thì trực tiếp, cái thì gián tiếp qua một hay nhiều lớp, do đó tác động cũng không giống nhau. Trong ảnh hưởng phức tạp của tất cả sự vật làm cho một sự vật xuất hiện và chuyển biến, đạo Phật đã rút ra một quy luật bản nhiên là luật nhân quả.

Luật nhân quả là một quy luật rất sinh động không phải luôn luôn đơn giản như trồng lúa thì được lúa. Lại chính việc trồng lúa được lúa cũng không đơn giản lắm, vì phải có đất, có nước, phân, cần, giống, phải kể đến thời tiết thuận nghịch, đến kỹ thuật cấy cày,… thì mới chắc được lúa và được nhiều lúa. 

Vì thế nên nhân quả và định mệnh khác nhau rất nhiều. Định mệnh thì việc gì cũng đã định trước rồi, không làm sao tránh khỏi được; còn nhân quả thì chẳng những có nhân quá khứ sanh quả hiện tại, mà lại còn có nhân hiện tại sanh quả hiện tại (trong đó có cả ảnh hưởng của hoàn cảnh, ảnh hưởng của tư tưởng hành động bản thân). 

Hai dây chuyền nhân quả đó thường xuyên ảnh hưởng lẫn nhau, làm cho quả báo hiện tại thay đổi từng giờ từng phút. Vật chất có nhân quả vật chất, tâm thức có nhân quả tâm thức; hai bên ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng không nhất thiết giống nhau. Đối với đạo Phật, nhân quả tâm thức là chủ yếu, vì nó quy định sự tiến hóa hay thoái hóa trên con đường giải thoát.

Các vị Thanh văn, Duyên giác, theo đạo lý nhân quả, trừ bỏ nguyên nhân luân hồi và chứng quả vô sanh, nhưng vẩn còn tu chứng trong nhân quả, chứ chưa rõ được then chốt nhân quả.

Then chốt nhân quả là Pháp giới tánh trùng trùng duyên khởi, nghĩa là một sự vật duyên tất cả sự vật, tất cả sự vật duyên một sự vật, trong một có tất cả, trong tất cả có một, một tức là tất cả, tất cả tức là một. Tánh ấy gọi là tánh chân như, là thật tướng, là Phật tánh, là Như Lai tạng tánh, là pháp tánh, là tâm tánh,…

Tánh ấy bình đẳng, không thật có sanh, có diệt, có người, có mình, có tâm, có cảnh, có thời gian, có không gian, không thấp, không cao, không mê, không ngộ; tánh ấy duyên khởi ra tất cả sự vật, không có ngăn ngại, đồng thời cũng tức là bản tánh của tất cả sự vật, không hề thay đổi.

Tam thế chư Phật, chư Đại Bồ tát, thật chứng và nhập một với Pháp giới tánh nên phát khởi vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa độ vô lượng vô biên chúng sanh, nhưng vẫn không gì ra ngoài Pháp giới tánh. Chúng sanh chưa chứng được Pháp giới tánh nên theo duyên mà luân hồi trong lục đạo. Nhận thức khác nhau nên chỗ thụ dụng của Phật và của chúng sanh khác nhau, nhưng Pháp giới tánh vẫn như vậy, không thêm không bớt.

Pháp giới tánh là tánh chung của các loài vô tình như cây, như đá và của các loài hữu tình như động vật; nhưng chỉ các loài hữu tình, đặc biệt các loài có trình độ nhận thức khá cao như loài người, mới có khả năng chứng được Pháp giới tánh và thành Phật đạo. Do đó nên Pháp giới tánh nơi các loài hữu tình cũng gọi là Phật tánh.

Các loài hữu tình chủ yếu là những cái tâm làm cho có sống, có cảm giác, có nhận thức, có suy nghĩ, có ghi nhớ,… Cái tâm là một sự vật nên bản tánh vẫn là Pháp giới tánh như các sự vật khác.

Khi học đạo và tu chứng, tâm ấy có thể quan sát Pháp giới tánh nơi cây, nơi đá, hay quan sát Pháp giới tánh nơi tự tâm; nhưng khi xét nhận được Pháp giới tánh nơi tự tâm thì có phần dễ nhập một với Pháp giới tánh hơn là khi xét nhận được Pháp giới tánh nơi cây nơi đá.

Vì thế Phật thường dạy người đời tu chứng Pháp giới tánh nơi tự tâm mình và gọi Pháp giới tánh đó là tâm tánh.

Song tâm tánh vốn là Pháp giới tánh, chứ không phải tánh riêng của tự tâm và khi chứng ngộ được tâm tánh rồi thì cả tâm riêng cũng không còn nữa.

Phật thuyết pháp theo căn cơ của chúng sanh, nên pháp của Phật, khi thấp, khi cao, khi quyền, khi thật, khác nhau. Nhưng dầu Phật dạy “Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện”, dạy “Tứ đế”, “Thập nhị nhân duyên”, hay dạy về pháp tánh, pháp tướng, tâm tánh, chân như, chân không, thật tướng,… Phật luôn luôn nhằm mục đích chỉ bày cho chúng sanh chứng ngộ trí huệ của Phật, nghĩa là chứng ngộ Pháp giới tánh.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một kinh Đại thừa, chính nơi thấy nghe thông thường của chúng sanh mà chỉ ra tâm tánh, rất thích hợp với căn cơ hiện nay.

Chúng tôi chung sức chung trí dịch kinh ấy ra quốc văn, đồng thời nêu ra đại ý của kinh để giúp đở người học Đạo hiểu thêm những lời Phật dạy. Chúng tôi tìm cách không nói rộng mà nói gọn, không nói khó mà nói dễ, tránh những danh từ không cần thiết và dùng những lời lẽ phổ thông để tiện cho các bạn mới phát tâm nghiên cứu Phật pháp.

Mặc dầu như thế, chúng tôi cố gắng phản ảnh đầy đủ nghĩa lý nhiệm mầu trong kinh, hầu mong có vị túc căn túc trí nương theo nghĩa lý ấy mà trực nhận tâm tánh thì ba tạng kinh điển tuy nhiều cũng không ra ngoài kinh Thủ Lăng Nghiêm vậy.

Bản nguyện chúng tôi thì lớn, nhưng năng lực còn có hạn, trông mong thập phương thiện trí thức phê bình giúp đỡ cho chúng tôi làm tròn công đức, báo ơn Tam bảo trong muôn một.

Viết tại chùa Quán Sứ, Hà Nội.
Mùa xuân năm Tân Sửu (1961)
Tâm Minh Lê Đình Thám (1897~1969)