Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 2: Trong Cái Thân Vô Thường Sanh Diệt – Có Cái Thường Hằng Không Sanh Diệt
大佛頂首楞嚴經
- Published: 23 Nov 2021 20:09:01
- Modified: 31 Jul 2022 14:21:44
- Categories: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Tags: Cư sĩ Hạnh Cơ, Tâm Minh Lê Đình Thám
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh – Tập 19 – Số 945 (Mật Giáo Bộ)
Surangama Sutra – 大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經
Đại Phật Đỉnh
Như Lai Mật Nhân
Tu Chứng Liễu Nghĩa
Chư Bồ Tát Vạn Hạnh
Thủ Lăng Nghiêm Kinh
Ngài Bồ tát Long Thụ (thế kỷ II) thỉnh từ cung rồng Ta Kiệt La
Nước Trung Hoa – triều Đại Đường (618~907) – đời Trung Tông (705~710)
Ngài Sa môn Bát Lạt Mật Đế (người Thiên Trúc) dịch chép ra Phạn văn, sau đó truyền kinh sang Trung Hoa và tổng dịch năm 705
Sa môn Di Già Thích Ca (?~?) Hán dịch từ Phạn văn
Sa môn Hoài Địch (?~?) chứng minh bản dịch
Cư sĩ Phòng Dung (tể tướng đời Võ Chu) bình chương, bút thọ, bảo trợ bản dịch
Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (1897~1969) Việt dịch từ Hán văn năm 1961
daithua.com biên tập năm 2021
Quyển 2:
Trong Cái Thân Vô Thường Sanh Diệt
Có Cái Thường Hằng Không Sanh Diệt
Khi bấy giờ ông A Nan cùng cả đại chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư thái, nghĩ mình từ vô thủy đến nay, bỏ mất bản tâm, lầm nhận sự phân biệt bóng dáng tiền trần làm tâm, ngày nay được khai ngộ như em bé mất sữa, bỗng gặp mẹ hiền, chấp tay lễ Phật, xin Đức Như Lai, ở nơi thân tâm, chỉ ra chỗ chân chỗ vọng, chỗ hư chỗ thật, ở nơi hiện tiền phát minh ra hai tánh sanh diệt, và không sanh diệt.
Khi ấy vua Ba Tư Nặc đứng dậy bạch Phật:
- Trước tôi chưa được vâng nghe lời Phật dạy bảo, tôi thấy bọn Ca Chiên Diên, Tỳ La Chi Tử đều nói thân này chết rồi là mất hẳn và gọi đó là Niết bàn; nay tuy được gặp Phật nhưng tôi vẩn còn hồ nghi, xin Phật chỉ rõ thế nào chứng biết tánh không sanh diệt nơi tâm này. Hiện nay các hàng hữu lậu trong đại chúng cũng đều trông mong được nghe điều ấy.
Phật bảo:
- Đại vương, thân ông hiện đó, nay tôi hỏi ông: Cái nhục thân đó của ông có như kim cang thường còn, không hư hỏng hay lại cũng biến đổi và tan rã?
- Bạch Thế Tôn, thân tôi hiện nay rốt cuộc về sau cũng thay đổi và tiêu diệt.
Phật bảo:
- Đại vương, ông chưa hề bị diệt, làm sao lại biết được là phải diệt?
- Bạch Thế Tôn, cái thân vô thường thay đổi của tôi đây, tuy chưa hề bị diệt; song tôi xét nó hiện nay niệm niệm dời đổi, mãi mãi không thôi như lửa thành tro, lần lần tiêu mất; vì tiêu mất, mãi mãi không dừng nên tôi biết chắc thân này rồi phải diệt mất.
Phật dạy:
- Đúng thế, đại vương, tuổi tác của ông nay đã già yếu, vậy mặt mày của ông so với lúc còn bé thì như thế nào?
- Bạch Thế Tôn, lúc tôi bé nhỏ, da thịt mớn mơ, đến khi trưởng thành, huyết khí sung túc; nay thì tuổi già, ngày thêm suy yếu, hình sắc khô gầy, tinh thần lẫn lộn, tóc bạc mặt nhăn, chừng sống không được bao lâu nữa, so sánh sao được với lúc đương còn trẻ mạnh!
Phật bảo:
- Đại vương, hình dung của ông, nào phải đương trẻ mà già liền đâu?
Vua bạch:
- Thưa Thế Tôn, sự biến hóa thầm thầm dời đổi, tôi thật không hay; nắng mưa thấm thoát, lần đến thế nầy. Vì sao?
- Khi 20 tuổi, tuy gọi là trẻ, nhưng mặt mày của tôi đã già hơn khi 10 tuổi; khi 30 tuổi lại sút hơn lúc 20 tuổi và đến nay đã 60 lại thêm hai tuổi, trông lại lúc 50 tuổi, còn khỏe mạnh hơn nhiều.
- Bạch Thế Tôn, tôi thấy thầm thầm dời đổi như thế; thân nầy đến nay tuy đã suy yếu, nhưng trong sự thay đổi, còn chia từng 10 năm.
- Nếu tôi suy xét chín chắn hơn nữa thì cái biến đổi ấy đâu phải từng một kỷ, thật là mỗi năm mỗi thay đổi; lại đâu mỗi năm mỗi thay đổi mà cũng là mỗi tháng mỗi biến hóa; lại không những mỗi tháng mỗi biến hóa mà còn mỗi ngày mỗi đổi thay; xét cho cùng, nghĩ cho kỹ, trong mỗi sát na, trong mỗi niệm, nó không thể đứng yên, vậy nên tôi biết thân tôi rốt cuộc phải biến đổi và tiêu diệt.
Phật bảo:
- Đại vương, ông thấy biến hóa dời đổi không ngừng, ngộ biết là phải diệt; vậy trong lúc diệt đó, ông có biết trong thân có cái gì không diệt chăng?
Vua Ba Tư Nặc chấp tay bạch Phật:
- Thật tôi không biết.
Phật bảo:
- Nay tôi chỉ cho ông cái tánh không sanh diệt, đại vương, khi ông mấy tuổi, mới thấy nước sông Hằng.
Vua bạch:
- Khi tôi ba tuổi, mẹ tôi dắt đi yết lễ thần Kỳ Bà Thiên thì đã đi qua sông ấy; lúc đó tôi liền biết là nước sông Hằng.
Phật bảo:
- Đại vương, như lời ông nói: Lúc 20 tuổi thì sút hơn lúc lên 10, cho đến nay đã 60 tuổi, từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ, dời đổi mãi mãi; vậy khi ông 3 tuổi thấy nước sông ấy, rồi đến khi 13 tuổi thì nước ấy thế nào?
Vua bạch:
- Tôi thấy nước ấy cũng giống khi 3 tuổi, như nhau không khác và đến nay tuổi đã 62, cũng vẫn không khác.
Phật bảo:
- Nay ông xét mình đầu bạc mặt nhăn, mặt ông chắc là nhăn hơn lúc trẻ; vậy cái thấy hiện nay của ông thấy sông Hằng so với cái thấy lúc nhỏ thấy sông Hằng, có già trẻ gì không?
Vua bạch:
- Thưa Thế Tôn, không.
Phật bảo:
- Đại vương, mặt ông tuy nhăn, nhưng cái thấy đó chưa hề bị nhăn; cái bị nhăn thì thay đổi, còn cái không bị nhăn thì không có thay đổi.
- Cái thay đổi thì phải diệt, còn cái không thay đổi kia, vốn không sanh diệt, làm sao trong ấy, lại nhận sống cái chết của ông, mà ông còn dẫn những thuyết của bọn Mạt Già Lê kia bảo rằng thân này chết rồi diệt hẳn.
Vua nghe lời Phật dạy như vậy, tin biết về sau bỏ thân nầy qua thân khác, cùng với đại chúng nhẩy nhót vui mừng, được cái chưa từng có.
Ông A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật chấp tay, quỳ dài bạch Phật:
- Thưa Thế Tôn, nếu cái thấy nghe đó thật không sanh diệt thì làm sao Đức Thế Tôn lại gọi bọn chúng tôi bỏ mất chân tánh, làm việc trái ngược?
- Xin Phật mở lòng từ bi, rửa sạch trần cấu cho chúng tôi.
Khi ấy Đức Như Lai ruỗi cánh tay kim sắc, ngón tay chỉ xuống, bảo ông A Nan rằng:
- Ông nay thấy tay Mẫu đà la tôi là chính hay là ngược?
Ông A Nan bạch:
- Chúng sanh thế gian cho đó là ngược, còn tôi thì không biết thế nào là chính, thế nào là ngược.
Phật bảo ông A Nan:
- Nếu người thế gian cho đó là ngược, thì người thế gian gọi thế nào là chính?
Ông A Nan bạch Phật:
- Đức Như Lai đưa cánh tay lên, tay Đâu la miên chỉ lên trên không thì gọi là chính.
Phật liền giơ cánh tay lên và bảo ông A Nan rằng:
- Cái trái ngược như thế, chỉ là đầu đuôi thay đổi lẫn nhau; các người thế gian lắp đi lắp lại mà xem thấy. Nay lấy cái thân ông và Pháp thân thanh tịnh của chư Như Lai, so theo đó mà phát minh, thì thân của Như Lai gọi là chánh biến tri, thân của các ông gọi là tánh trái ngược; tùy ông xét kỹ nơi thân ông và thân Phật, cái gọi là trái ngược đó, do ở chỗ nào mà gọi là trái ngược?
Khi ấy ông A Nan cùng cả đại chúng chăm chăm ngó Phật, tròng con mắt không lay động, chẳng biết thân tâm chỗ nào trái ngược. Phật phát lòng từ bi, thương xót ông A Nan và đại chúng, phát tiếng hải triều, khắp bảo trong hội:
- Các Thiện nam tử, tôi thường nói rằng: Sắc, tâm, các duyên và các tâm sở, các pháp sở duyên, đều duy tâm tánh biến hiện. Thân ông, tâm ông đều là những vật hiện ra trong tâm tánh. Làm sao các ông lại bỏ mất tâm tánh quý báu ấy, nhận cái mê trong ngộ. Mê muội thành có hư không, trong hư không mê muội ấy, kết cái mê muội thành ra có sắc; sắc xen với vọng tưởng; tưởng tướng làm thân, nhóm các duyên lay động bên trong, giong ruổi theo cảnh vật bên ngoài; rồi lấy cái tướng mờ mịt lăng xăng đó làm tâm tánh.
- Một phen lầm cái tướng ấy làm tâm thì quyết định lầm cho rằng tâm ở trong sắc thân, mà không biết sắc thân, cho đến núi sông, hư không, đất liền bên ngoài đều là những vật hiện trong tâm tánh; ví như bỏ cả trăm nghìn biển lớn trong lặng, chỉ nhận một cái bọt nước; rồi cho nó là toàn hết cả nước, cùng tột các biển lớn.
- Bọn ông tức là những người mê lầm nhiều lớp, như cánh tay tôi rủ xuống, không có sai khác. Như Lai gọi là đáng thương xót đó.
Ông A Nan vâng nghe lời Phật từ bi cứu độ dạy bảo, khóc lóc tréo tay mà bạch Phật rằng:
- Tuy tôi vâng nghe diệu âm của Phật như vậy, ngộ được chỗ thường trụ viên mãn sẵn có của tâm tánh, nhưng tôi ngộ được pháp âm của Phật vừa dạy là tôi hiện lấy tâm phan duyên mà thỏa mãn chỗ ước mong.
- Tôi luống được tâm ấy, chưa dám nhận là tâm tánh bản lai; mong Phật thương xót, tuyên lời viên âm, nhổ gốc nghi ngờ của tôi, đem về đạo vô thượng.
Phật bảo ông A Nan:
- Bọn ông còn lấy tâm phan duyên mà nghe pháp thì cái pháp nhận được đó cũng chỉ là sở duyên, chứ không phải nhận được pháp tánh. Ví như có người lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người khác thì người kia lẽ ra phải nhân ngón tay mà thấy mặt trăng.
- Nếu như người kia xem ngón tay và cho đó là mặt trăng thì người ấy chẳng những bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất cả ngón tay chỉ nữa.
- Vì sao? Vì nhận ngón tay chỉ làm mặt trăng vậy. Đâu những bỏ mất ngón tay lại cũng không phân biệt được sáng và tối.
- Vì sao? Vì lấy ngón tay tối làm mặt trăng sáng thì không rõ biết được hai tánh sáng tối. Ông cũng như vậy. Nếu lấy cái phân biệt pháp âm tôi làm tâm của ông thì cái tâm ấy phải rời cái phân biệt tiếng nói, có tánh phân biệt.
- Ví như người khách ngủ trọ quán trạm, ở tạm rồi đi, rốt cuộc ở mãi không được, còn người giữ trạm thì không đi đâu, gọi là chủ trạm. Tâm cũng như vậy, nếu thật tâm ông thì không đi đâu, làm sao rời cái tiếng, lại không có tánh phân biệt?
- Nói như thế chẳng những đối với tâm phân biệt các tiếng; cái phân biệt hình dung của tôi, rời các sắc tướng, cũng không có tánh phân biệt; như vậy cho đến cái phân biệt đều không, không phải sắc, không phải không, mà bọn Câu Xá Ly lầm là minh đế, thì rời các Pháp trần, cũng không tánh phân biệt.
- Như vậy tâm tánh của ông đều có chỗ trả về, lấy gì mà làm chủ?
Ông A Nan bạch:
- Như tâm tánh của tôi đều có chỗ trả về, thì tâm tánh của Như Lai dạy, làm sao lại không có chỗ trả về?
- Xin Phật thương xót chỉ bảo cho tôi điều ấy.
Phật bảo ông A Nan:
- Hãy lấy cái tánh thấy của ông thấy tôi đây. Tánh thấy ấy tuy không phải là tâm tánh như mặt trăng thứ hai không phải thật là mặt trăng. Ông hãy nghe cho chín, nay tôi chỉ cho ông cái nghĩa không thể trả về.
- A Nan, đại giảng đường nầy mở rộng phương Đông, khi mặt trời lên thì sáng, nửa đêm vắng trăng, mây mù mờ mịt thì lại tối tăm; chỗ có các cửa thì thấy thông suốt; chỗ có tường nhà thì thấy ngăn bịt; chỗ phân biệt được, thấy cảnh sắc duyên; trong chỗ rỗng trống, toàn là hư không; cảnh tượng mù mịt khi bụi nổi lên; mưa tạnh trời thanh lại thấy trong sạch.
- A Nan, ông đều xem rõ các tướng biến hóa ấy, nay tôi trả các tướng ấy về chỗ bản nhân của nó. Thế nào là bản nhân?
- A Nan, trong các tướng biến hóa, cái sáng trả về cho mặt trời.
- Vì sao? Vì không mặt trời thì không sáng, nguyên nhân cái sáng thuộc về mặt trời, cho nên trả cho mặt trời. Cái tối trả về cho trăng tối, thông suốt trả về cho các cửa, ngăn bịt trả về cho tường nhà, sắc duyên trả về cho phân biệt, rỗng trống trả về cho hư không, mù mịt trả về cho bụi, trong sáng trả về cho tạnh, và trong thế gian có những cái gì, cũng không ra ngoài mấy loại ấy.
- Còn cái tánh thấy của ông thấy tám thứ kia thì ông định trả về đâu.
- Vì sao? Nếu trả về cho sáng thì lúc không sáng lại không thấy tối, nay tuy các thứ sáng tối có sai khác, cái thấy không có sai khác. Các cái thấy có thể trả về tự nhiên không phải là ông, còn cái không thể trả về được thì không phải là ông mà là ai nữa?
- Vậy thì biết tâm ông vốn là nhiệm mầu trong sạch sáng suốt, ông tự mê lầm, bỏ mất tánh bản nhiên mà chịu luân hồi, thường bị chìm đắm trong bể sống chết, nên Như Lai gọi là đáng thương xót.
Ông A Nan bạch:
- Tuy tôi biết tánh thấy ấy không thể trả về đâu, nhưng làm sao biết được đó là chân tánh của tôi.
Phật bảo ông A Nan:
- Nay tôi lại hỏi ông: Hiện ông chưa được đạo quả vô lậu thanh tịnh, nhờ thần lực của Phật, mới thấy được cõi Sơ Thiền, không bị ngăn ngại. Ông A Na Luật thì thấy cõi Diêm Phù Đề như xem quả am ma la trong bàn tay. Các vị Bồ tát thấy trăm nghìn cõi thập phương Như Lai, cùng tột các quốc độ thanh tịnh, số như vi trần, không chỗ nào không thấy. Còn chúng sanh thì thấy rõ được không quá gang tấc.
- A Nan, nay tôi cùng ông hãy xem cung điện của Tứ Thiên vương, chặng giữa xem khắp các loài thủy, lục, không, hành, tuy có nhiều hình tượng sáng tối khác nhau, nhưng không cái gì là không phải tiền trần chia cắt ngăn ngại. Ông hãy ở nơi đó phân biệt cái gì là mình, cái gì là vật khác. Nay tôi hãy đưa ông lựa trong sự thấy đó, cái gì là tâm thể của ông, cái gì là cái hình tượng của vật.
- A Nan, cùng tột sức thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng đều là vật, chứ không phải ông; đến Thất Kim sơn, xem xét cùng khắp, tuy có những thứ hào quang nhưng cũng là vật chứ không phải là ông; lần lần xem đến mây kéo, chim bay, gió động, bụi nổi, cây cối núi sông, cỏ rác người vật, đều là vật chứ không phải là ông.
- A Nan, các vật gần xa đó, tuy sai khác nhau, nhưng đồng do cái thấy của ông thanh tịnh trông thấy, thì các thứ vật kia tự có sai khác mà tánh thấy của ông không có sai khác. Cái thấy nhiệm mầu sáng suốt đó thật là tánh thấy của ông.
- Nếu cái thấy là vật thì ông cũng có thể thấy cái thấy của tôi. Nếu cho rằng đồng thấy sự vật là thấy cái thấy của tôi thì khi tôi không thấy, sao lại không thấy được cái chỗ không thấy của tôi?
- Nếu nói rằng thấy cái không thấy thì tự nhiên cái đó không phải là cái tướng của cái không thấy; còn nếu không thấy được chỗ không thấy của tôi, thì cái thấy bản nhiên không phải là vật, làm sao lại không phải là ông?
- Lại như cái thấy là vật thì đương khi ông thấy vật đó, ông đã thấy được vật, vật cũng thấy được ông, thế thì thể tánh xen lộn và ông cùng tôi với cả thế gian không thành lập được.
- A Nan, nếu khi ông thấy là chính ông thấy, chứ không phải tôi, thì cái thấy cùng khắp đó không phải là ông thì còn là ai nữa.
- Làm sao lại tự nghi cái chân tánh của ông. Chân tánh của ông, ông không tự nhận lấy, lại chấp lời nói của tôi, mà cầu chứng thật.
Ông A Nan bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn, nếu cái tánh thấy đó chắc là tôi, chứ không phải ai khác, thì khi tôi cùng Như Lai xem cung điện quý báo của Tứ Thiên vương, xem mặt trời mặt trăng, cái thấy ấy cùng khắp cả cõi Ta Bà, khi lui về tịnh xá thì chỉ thấy cảnh vườn chùa, đến khi thanh tâm nơi phòng chái thì lại chỉ thấy một chái nhà.
- Thưa Thế Tôn, cái thấy như vậy, bản thể của nó cùng khắp một cõi, nay ở trong phòng thì chỉ thấy một phòng; thế là cái thấy rút lớn thành nhỏ hay là tường nhà chia cắt làm cho đứt đoạn. Nay tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật vì tôi từ bi chỉ rõ.
Phật bảo ông A Nan:
- Tất cả các thứ trong, ngoài, lớn nhỏ của thế gian đều thuộc về tiền trần, không nên nói rằng cái thấy có co có ruỗi. Ví như trong đồ vuông thì thấy hư không vuông; nay tôi hỏi ông: Cái hư không vuông thấy được trong đồ vuông ấy, là nhất định vuông hay không nhất định vuông?
- Nếu nhất định vuông thì khi thay đồ tròn vào, lẽ ra hư không tròn; nếu không nhất định thì trong đồ vuông, lẽ ra không có hư không vuông. Ông nói không biết nghĩa đó do đâu, nghĩa đó như vậy, sao còn do đâu được.
- A Nan, nếu muốn nhận được tánh không vuông không tròn, chỉ trừ bỏ cái vuông của đồ đạc, chứ bản thể hư không vốn không vuông, không nên nói rằng lại phải trừ cả cái vuông của hư không nữa.
- Lại như lời ông hỏi: Khi vào trong phòng, rút cái thấy làm cho nhỏ lại thì khi ngửa xem mặt trời, há lại kéo cái thấy ngang với mặt trời?
- Nếu xây tường nhà chia cắt cái thấy làm cho đứt đoạn, thì đến khi xoi một lỗ nhỏ, sao lại không thấy dấu nối. Nghĩa ấy không đúng.
- Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, lầm mình là vật, bỏ mất tâm tánh, bị vật xoay chuyển, cho nên trong đó thấy lớn thấy nhỏ. Nếu biết chuyển được vật thì đồng với Như Lai, thân tâm đều viên mãn sáng suốt, nơi đạo tràng bất động đó, trên đầu một mảy lông cũng có thể trùm chứa thập phương quốc độ.
Ông A Nan bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn, nếu cái thấy đó, chắc là chân tánh của tôi thì cái chân tánh đó, hiện ở trước mắt tôi; cái thấy đó đã là chân tánh của tôi thì thân tâm tôi, hiện nay, lại là vật gì?
- Mà nay thân tâm ấy thật có phân biệt, còn cái thấy kia thì không phân biệt riêng gì thân tôi. Nếu nó thật là tâm tôi, làm cho tôi hiện nay có thấy, vậy tánh thấy ấy đã thật là tôi, còn thân nầy không phải là tôi thì nào khác gì Đức Như Lai trước kia đã hỏi vặn rằng: Vật thấy được tôi.
- Xin Phật rủ lòng đại từ, chỉ bày cho chỗ chưa ngộ.
Phật bảo ông A Nan:
- Nay ông nói rằng: Cái thấy ở trước mắt ông, nghĩa ấy không đúng. Nếu thật ở trước mắt ông và ông thật thấy được thì cái thấy đó đã có chỗ ở, không phải không chỉ ra được. Vậy nay tôi cùng ông ngồi trong rừng Kỳ Đà, trông khắp rừng, suối với các điện, đường, trên đến mặt trời, mặt trăng, trước đối với sông Hằng.
- Nay ông hãy ở trước sư tử tọa của tôi, giơ tay chỉ bày trong các tướng kia, chỗ râm là rừng, cái sáng là mặt trời, ngăn ngại là vách, thông suốt là hư không, như thế cho đến cỏ cây, mảy mún, tuy lớn nhỏ khác nhau, nhưng đã có hình thì không cái gì là không chỉ đích ra được.
- Vậy nếu cái thấy, hiện ở trước mắt ông thì ông hãy lấy tay chỉ rõ đích xác cái gì là cái thấy.
- A Nan, ông nên biết, nếu hư không là cái thấy, thì hư không đã thành cái thấy, còn cái gì mới là hư không; nếu vật là cái thấy, thì vật đã là cái thấy, còn cái gì mới là vật. Ông hãy chín chắn chia chẻ trong muôn hiện tượng, tách ra cái thấy, chỉ bày cho tôi như các vật kia, rõ ràng không lầm lẫn.
Ông A Nan bạch:
- Nay tôi ở giảng đường nầy, trông xa đến sông Hằng, trên đến mặt trời, mặt trăng, giơ tay chỉ ra, đưa mắt trông ra, thì những cái chỉ được đều là vật, chứ không có cái gì là cái thấy.
- Bạch Thế Tôn, như lời Phật vừa dạy, chẳng những hàng hữu lậu sơ học Thanh văn như chúng tôi, mà cho đến các vị Bồ tát cũng không thể, ở nơi hiện tượng muôn vật, chỉ ra cái thấy, rời tất cả vật, riêng có tự tánh.
Phật dạy:
- Đúng thế, đúng thế.
Phật lại bảo ông A Nan:
- Như lời ông nói: Không có cái thấy, rời tất cả vật, riêng có tự tánh; thì trong tất cả các vật đã chỉ được, không có cái gì là cái thấy cả.
- Nay tôi lại bảo ông: Ông cùng Như Lai ngồi trong rừng Kỳ Đà, lại xem rừng vườn cho đến mặt trời mặt trăng, nhiều thứ hình tượng khác nhau, trong đó, chắc không có cái thấy mà ông có thể chỉ ra được.
- Vậy ông hãy phát minh trong các vật đó, có cái gì ra ngoài cái thấy?
Ông A Nan bạch:
- Thật tôi thấy khắp rừng Kỳ Đà nầy, không biết trong đó có cái gì ra ngoài cái thấy. Vì sao?
- Nếu cái cây ra ngoài cái thấy thì sao lại thấy cây, còn nếu cái cây tức là cái thấy thì sao lại là cây; như thế cho đến nếu hư không ra ngoài cái thấy, thì sao thấy được hư không, còn nếu hư không tức là cái thấy, thì sao lại là hư không.
- Tôi lại suy nghĩ, phát minh chín chắn trong muôn hình tượng, thật không có cái gì ra ngoài cái thấy cả.
Phật dạy:
- Đúng thế, đúng thế.
Khi ấy trong đại chúng, những vị chưa chứng quả Vô học, nghe Phật dạy như thế, mờ mịt chẳng biết nghĩa ấy đầu đuôi thế nào, nên đồng thời sợ hãi, không giữ được tâm thanh tịnh.
Đức Như Lai biết đại chúng tâm niệm rối loạn, sanh lòng thương xót, an ủi ông A Nan và cả đại chúng rằng:
- Các Thiện nam tử, bậc Vô thượng pháp vương, lời nói chân thật, như tánh chân như mà nói, không lừa không dối, không phải như bốn thứ luận nghị càn giỡ bất tử của bọn Mạt Già Lê; ông hãy suy nghĩ cho chín chắn, chớ phụ lòng thương mến của tôi.
Lúc ấy ngài Pháp vương tử Văn Thù Sư Lợi thương xót hàng tứ chúng, ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ chân Phật, chấp tay cung kính mà bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn, đại chúng nầy không ngộ được chỗ Đức Như Lai phát minh ra hai nghĩa thị và phi thị nơi hai thứ cái thấy và sắc không.
- Bạch Thế Tôn, nếu những hiện tượng sắc không nơi tiền cảnh, tức là cái thấy, thì lẽ ra có chỗ chỉ được, còn nếu ra ngoài cái thấy, thì lẽ ra không thể thấy được; mà nay đại chúng không rõ nghĩa ấy do đâu, nên mới kinh sợ, chứ không phải vì trước đây thiện căn ít ỏi.
- Kính mong Đức Như Lai thương xót, phát minh cho rõ các vật tượng ấy và cái thấy ấy vốn là vật gì, mà ở trong đó, lại không có các nghĩa thị và phi thị.
Phật bảo ngài Văn Thù cùng cả đại chúng rằng:
- thập phương Như Lai và các vị Đại Bồ tát ở trong tự trụ Tam ma địa, thì cái thấy, cái bị thấy và các tương tướng hoa đốm hư không, vốn không có gì.
- Cái thấy và cái bị thấy đó vốn là tâm tánh Bồ đề nhiệm mầu trong sạch sáng suốt, làm sao trong đó, lại còn có các nghĩa thị và phi thị?
- Văn Thù, nay tôi hỏi ông: Như ông đây là Văn Thù, nơi ông lại có cái tức là Văn Thù hay không có Văn Thù?
- Bạch Thế Tôn, đúng thế. Tôi đây thật là Văn Thù, nơi tôi không có cái gì tức là Văn Thù, vì sao?
- Vì nếu có cái ấy, thì thành ra hai Văn Thù, nhưng tôi hiện nay không phải là không Văn Thù; trong đó thật không có hai tướng thị và phi thị.
Phật bảo:
- Tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt với các thứ sắc, không thì cũng như vậy. Vốn một tâm tánh Vô thượng Bồ đề, lầm nhận là sắc, không cùng với nghe, thấy, như dụi con mắt, thấy có hai mặt trăng, thì mặt trăng nào mới thật là mặt trăng, còn mặt trăng nào lại không phải là mặt trăng.
- Văn Thù, chỉ có một mặt trăng thật, trong ấy tự không có cái gì thật là mặt trăng hay không phải là mặt trăng. Vậy nên hiện nay, các ông phát minh ra các thứ xem thấy và trần cảnh, đều gọi là vọng tưởng, không thể ở trong đó, chỉ ra các nghĩa thị và phi thị.
- Nhưng do tất cả đều là tâm tánh nhiệm mầu sáng suốt nên có thể làm cho các ông ra ngoài các nghĩa chỉ được và không chỉ được.
Ông A Nan bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn, thật như lời pháp vương dạy, tâm tánh cùng khắp thập phương thế giới, yên lặng thường trụ, không có sanh diệt; điều ấy so với thuyết ông Phạm chí Sa Tỳ Ca La ngày xưa nói về minh đế, hay các thuyết ngoại đạo như bọn Đầu Khôi nói có chân ngã cùng khắp mười phương, khác nhau thế nào?
- Ở núi Lăng Già, Đức Thế Tôn đã từng, vì các ông Đại Huệ, chỉ dạy rằng: Bọn ngoại đạo kia thường nói tự nhiên, còn Phật nói nhân duyên, không phải cảnh giới của bọn kia.
- Nay tôi xét cái tâm tánh đó tự nhiên, không phải sanh, không phải diệt, xa rời tất cả các điều trái ngược, luống dối, giống như không phải là nhân duyên, cũng không phải là cái tự nhiên của bọn kia.
- Xin Phật khai thị thế nào, cho chúng tôi khỏi mắc tà kiến và được tâm tánh trong sạch nhiệm mầu sáng suốt.
Phật bảo ông A Nan:
- Nay tôi phương tiện chỉ bày, chân thật bảo ông như vậy, ông còn chưa ngộ, lại lầm là tự nhiên.
- A Nan, nếu chắc là tự nhiên, tự phải chỉ rõ thể tánh tự nhiên. Ông hãy xét cái tánh thấy kia lấy cái gì làm tự thể. Cái thấy đó lại là lấy cái sáng làm tự thể, lấy cái tối làm tự thể, lấy hư không làm tự thể hay lấy ngăn bịt làm tự thể.
- A Nan, nếu lấy cái sáng làm tự thể thì lẽ ra không thấy được tối, nếu lấy hư không làm tự thể thì lẽ ra không thấy được ngăn bịt, như vậy cho đến lấy các tướng tối mà làm tự thể thì đến khi sáng, tánh thấy đã diệt mất rồi, làm sao còn thấy được sáng ?
Ông A Nan bạch:
- Chắc cái tánh thấy ấy không phải là tự nhiên, thì nay tôi phát minh được, nó do nhân duyên mà sanh; nhưng tâm còn chưa rõ, xin hỏi Đức Như Lai, nghĩa lý thế nào cho hợp với tánh nhân duyên.
Phật dạy:
- Ông nói nhân duyên, tôi lại hỏi ông: Nay ông do nhân duyên mà có thấy; tánh thấy hiện trước đó, vậy tánh thấy, ấy lại là nhân cái sáng mà có thấy, nhân cái tối mà có thấy, nhân hư không mà có thấy hay nhân ngăn bịt mà có thấy?
- A Nan, nếu tánh thấy nhân cái sáng mà có, thì lẽ ra không thấy được tối, còn như nhân cái tối mà có, thì lẽ ra không được sáng; như vậy cho đến nhân hư không, nhân ngăn bịt, thì cũng đồng như nhân cái sáng và cái tối.
- Lại nữa, A Nan, cái thấy ấy lại là nương cái sáng mà có thấy, nương cái tối mà có thấy, nương hư không mà có thấy hay là nương ngăn bịt mà có thấy?
- A Nan, nếu nương hư không mà có thấy, thì lẽ ra không thấy được ngăn bịt; nếu nương ngăn bịt mà có thấy, thì lẽ ra không thấy được hư không; như vậy cho đến nương cái sáng, nương cái tối cũng đồng như nương hư không, nương ngăn bịt.
- Nên biết tánh thấy như vậy, không phải nhân, không phải duyên, không phải tự nhiên, cũng không phải không tự nhiên, không có nghĩa không phải hay không không phải, không có nghĩa tức là hay không tức là, rời hết tất cả các tướng, tức là tất cả sự vật; làm sao trong ấy, ông lại định đem các danh tướng hí luận thế gian mà phân biệt cho được. Thế cũng như lấy bàn tay, nắm bắt hư không, chỉ thêm nhọc sức, chứ làm sao hư không lại để cho ông nắm bắt.
Ông A Nan bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn, chắc cái tâm tánh ấy, không phải nhân duyên, thế sao Đức Thế Tôn lại thường chỉ dạy cho các hàng Tỳ kheo rằng: Tánh thấy có bốn thứ nhân duyên, nghĩa là nhân hư không, nhân ánh sáng, nhân cái tâm và nhân con mắt. Nghĩa đó thế nào?
Phật bảo:
- A Nan, tôi nói như thế là nói về các tướng nhân duyên thế gian, đó không phải là đệ nhất nghĩa.
- A Nan, tôi lại hỏi ông: Các người thế gian nói: Tôi thấy được, thì thế nào, họ gọi là thấy, còn thế nào, họ gọi là không thấy?
Ông A Nan bạch:
- Người đời nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn, thấy các hình tướng, thì gọi là thấy, còn nếu không có ba thứ ánh sáng đó, thì không thể thấy được.
- A Nan, nếu khi không sáng mà gọi là không thấy, thì lẽ ra không thấy được tối; nếu đã thấy được tối, thì khi đó, chỉ là không sáng, chứ đâu phải là không thấy.
- A Nan, nếu trong lúc tối, vì không thấy sáng mà gọi là không thấy; vậy nay, trong lúc sáng, không thấy cái tối, thì lại cũng phải gọi là không thấy; thế thì cả hai lúc sáng, tối, cũng đều gọi là không thấy cả.
- Còn nếu như hai cái sáng và tối tự lấn át nhau, chứ không phải trong đó, tánh thấy của ông tạm thời không có; thế thì biết cả hai lúc đều gọi là thấy, chứ sao lại gọi là không thấy.
- A Nan, vì vậy ông nên biết rằng: Trong lúc thấy sáng, cái thấy không phải là cái sáng, trong lúc thấy tối, cái thấy không phải là cái tối, trong lúc thấy hư không, cái thấy không phải là hư không, trong lúc thấy ngăn bịt, cái thấy không phải là ngăn bịt.
- Bốn nghĩa đó đã thành lập rồi, ông lại nên biết: Khi nhận thấy tánh thấy thì tánh thấy không phải là cái thấy. Tánh thấy còn rời cả cái thấy và cái thấy không thể đến nơi tánh thấy được; làm sao, ông còn nói đến những nhân duyên, tự nhiên và tướng hòa hợp?
- Bọn Thanh văn ông hẹp hòi không biết, không thông suốt được sự thật thanh tịnh, nay tôi chỉ dạy cho ông, ông nên khéo suy nghĩ, không được trễ nãi trên đường Bồ đề nhiệm mầu.
Ông A Nan bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn, như Đức Thế Tôn, vì bọn chúng tôi, chỉ dạy về nhân duyên, tự nhiên các tướng hòa hợp và không hòa hợp, tâm tôi còn chưa khai ngộ; nay lại nghe Phật dạy nhận thấy tánh thấy không phải là cái thấy thì càng thêm lúng túng, cúi xin Phật thương xót, bố thí cho con mắt đại trí huệ, chỉ bày cho chúng tôi tâm tánh trong sạch sáng suốt.
Ông A Nan nói như vậy rồi, khóc lóc đỉnh lễ, vâng nghe thánh chỉ của Phật.
Khi bấy giờ. Đức Thế Tôn thương xót ông A Nan và cả đại chúng, định sẽ chỉ dạy phép đại tổng trì là con đường tu hành nhiệm mầu các pháp Tam ma địa, bảo ông A Nan rằng:
- Ông tuy nhớ lâu, chỉ thêm phần học rộng, nhưng nơi vi mật quán chiếu Xa ma tha, tâm còn chưa rõ. Nay ông hãy nghe cho chín chắn, tôi sẽ vì ông phân tích chỉ bày, đồng thời cũng khiến cho những kẻ hữu lậu tương lai được quả Bồ đề.
- A Nan, tất cả chúng sanh luân hồi trong thế gian đều do hai nhận thức sai lầm, phân biệt trái ngược, chính nơi tâm tánh mà phát sanh, chính theo nghiệp báo mà xoay vần. Hai nhận thức ấy là gì?
- Một là nhận thức sai lầm nghiệp riêng của chúng sanh.
- Hai là nhận thức sai lầm nghiệp chung của chúng sanh.
- Thế nào gọi là nhận thức sai lầm nghiệp riêng?
- A Nan, như người thế gian, con mắt bị bệnh lòa thì ban đêm trông ngọn đèn, riêng có thấy bóng tròn ngũ sắc bao phủ. Ý ông nghĩ thế nào? Cái bóng tròn hiện ra nơi ngọn đèn, đó, là sắc của ngọn đèn hay là sắc của cái thấy?
- A Nan, nếu như là cái sắc của ngọn đèn, thì sao những người không lòa lại không cùng thấy, mà chỉ có người lòa mới thấy bóng tròn. Nếu như là sắc của cái thấy, thì cái thấy đã thành sắc rồi, còn cái người lòa kia thấy được bóng tròn thì gọi là cái gì?
- Lại nữa, A Nan, nếu cái bóng tròn kia ngoài ngọn đèn, riêng mình tự có, thì lẽ ra khi trông qua bình phong, bức màn, bàn trà, ghế ngồi, đều có bóng tròn hiện ra; còn nếu ngoài cái thấy, bóng tròn, riêng mình tự có, thì lẽ ra không thể thấy được, làm sao người lòa lại thấy bóng tròn.
- Vậy nên biết rằng: Sắc thật ở nơi ngọn đèn, cái thấy bị bệnh làm ra có bóng tròn. Cả cái bóng tròn và cái thấy bóng tròn đều là bệnh lòa. Nhận thấy được bệnh lòa thì cái nhận thấy đó không phải là bệnh; rốt cuộc không nên nói rằng bóng tròn là ngọn đèn hay là cái thấy, trong đó còn có bệnh lòa không phải ngọn đèn, không phải cái thấy. Ví như mặt trăng thứ hai, không phải thật thể mặt trăng và cũng không phải là cái bóng của mặt trăng.
- Vì sao? Vì thấy có mặt trăng thứ hai là do dụi mắt mà thành ra vậy. Các người có trí, không nên bảo rằng mặt trăng dụi mắt mà thành ra đó, là hình tướng hay không phải là hình tướng, là ra ngoài cái thấy hay không ra ngoài cái thấy. Bóng tròn cũng như vậy, nó do bệnh lòa mắt mà thành; nay dầu muốn gọi cái gì là ngọn đèn hay là cái thấy cũng không được, huống nữa, còn phân biệt là không phải nhọn đèn hay không phải là cái thấy!
- Thế nào gọi là nhận thức sai lầm nghiệp chung?
- A Nan, cõi Diêm Phù Đề này, trừ nước biển cả ra, trong đó đất bằng có 3000 châu, châu lớn chính giữa, bao quát từ Đông sang Tây, có đến 2300 nước lớn. Còn các châu nhỏ khác ở trong các biển, trong đó có châu đến 200, 300 nước hoặc có một chục, hai chục, cho đến 30, 40, 50 nước.
- A Nan, nếu ở trong đó có một châu nhỏ, chỉ có hai nước, mà riêng người trong một nước đồng cảm ác duyên, thì chúng sanh trong nước đó thấy tất cả những cảnh giới không tốt; hoặc thấy hai mặt trời, hoặc thấy hai mặt trăng, cho đến thấy nhiều ác tướng khác, như vựng, thích, bội, quyết, huệ, bột, phi, lưu, phụ nhĩ, hồng nghê; chỉ nước đó thấy, còn chúng sanh nước bên kia, thì vốn không thấy và cũng không nghe.
- A Nan, tôi nay đem hai việc đó, lui tới kết hợp mà chỉ rõ.
- A Nan, như cái nhận thức sai lầm nghiệp riêng của chúng sanh kia, thấy nơi ngọn đèn hiện ra bóng tròn, tuy giống như tiền cảnh, nhưng rốt cuộc là do bệnh lòa của người ấy tạo thành. Lòa là bệnh của cái thấy, không phải do sắc tướng tạo ra; song người nhận thấy được bệnh lòa vẫn không có lỗi lầm gì về cái thấy cả.
- So sánh với hiện nay, ông dùng con mắt xem thấy núi sông, cõi nước và các chúng sanh, đều là do bệnh thấy vô thủy tạo thành. Cái thấy và cái bị thấy duyên nhau, hình như hiện ra tiền cảnh, thật chất vốn là bệnh lòa, năng kiến sở kiến của tâm tánh mà thôi.
- Giác ngộ rằng thấy như thế tức là bệnh lòa, thì cái tâm Giác ngộ đó nhận thức không lòa. Giác ngộ thấy như thế là bệnh lòa, thì cái Giác ngộ đó không phải trong phạm vi bệnh lòa; đó thật là nhận thấy tánh thấy, sao còn gọi là thấy, nghe, hay, biết.
- Vậy nên nay ông thấy tôi cùng ông và thập loại chúng sanh trong thế gian đều là thấy lòa, chứ không phải là thấy được cái bị bệnh lòa. Cái tánh thấy chân thật kia, vốn ra ngoài bệnh lòa, cho nên không gọi là cái thấy.
- A Nan, như lấy nhận thức sai lầm nghiệp chung kia của chúng sanh, so với nhận thức sai lầm nghiệp riêng của một người, thì một người đau mắt cũng đồng như cả một nước kia; người đau mắt thấy bóng tròn là do bệnh lòa giả dối sanh ra; còn trong một nước kia, hiện ra các thứ không tốt là do ác duyên nghiệp chung của chúng sanh tạo nên; cả hai đều do nhận thức sai lầm vô thủy giả dối sanh ra.
- Tỷ lệ với 3000 châu, với bốn biển lớn trong cõi Diêm Phù Đề, với thế giới Ta Bà cho đến nước hữu lậu và các chúng sanh trong mười phương, đồng là nơi tâm tánh nhiệm mầu sáng suốt, các bệnh duyên thấy, nghe, hay, biết, sai lầm, hòa hợp giả dối sanh ra, hòa hợp giả dối diệt mất. Nếu xa rời được các bệnh duyên hòa hợp và không hòa hợp thì cũng diệt trừ được các nguyên nhân chết sống, đầy đủ tánh Bồ đề không sanh diệt, bản tâm thanh tịnh, bản giác thường an trụ.
- A Nan, ông tuy đã ngộ tâm tánh nhiệm mầu sáng suốt, vốn không phải nhân duyên, không phải tự nhiên, nhưng còn chưa rõ tâm tánh như vậy không phải hòa hợp mà sanh, cũng không phải không hòa hợp.
- A Nan, nay tôi lại lấy nơi tiền trần hỏi ông, ông còn đem tất cả những tánh nhân duyên hòa hợp của tư tưởng sai lầm thế gian mà tự nghi ngờ rằng chứng tâm Bồ đề cũng do hòa hợp mà phát khởi. Thì hiện nay, cái thấy của ông lại là hòa với cái sáng, hòa với cái tối, hòa với cái thông suốt hay hòa với cái ngăn bịt?
- Nếu hòa với cái sáng thì ông đang thấy sáng, cái sáng hiện đó, vậy chỗ nào xen lộn với cái thấy?
- Cái thấy cái sáng có thể nhận rõ, còn hình trạng xen lộn, thì như thế nào?
- Nếu cái sáng ra ngoài cái thấy, thì làm sao thấy được sáng?
- Còn nếu cái sáng tức là cái thấy, thì làm sao lại thấy được cái thấy?
- Như cái thấy cùng khắp, thì còn chỗ nào hòa được với cái sáng, còn như cái sáng cùng khắp, thì lẽ ra không hòa được với cái thấy. Cái thấy đã khác với cái sáng thì khi xen lộn vào, tất phải làm mất tánh cách của cái sáng. Cái thấy xen vào, làm mất tánh cách của cái sáng mà nói hòa với cái sáng là không đúng nghĩa.
- Đối với cái tối, cái thông suốt và cái ngăn bịt thì cũng như vậy.
- Lại nữa, A Nan, hiện nay cái thấy nhiệm mầu sáng suốt của ông lại là hợp với cái sáng, hợp với cái tối, hợp với cái thông suốt hay hợp với cái ngăn bịt?
- Nếu hợp với cái sáng thì đến khi tối, cái sáng đã mất rồi, cái thấy đó đã không hợp với cái tối, làm sao thấy được cái tối?
- Nếu khi thấy tôi mà không hợp với cái tối thì lẽ ra khi hợp với cái sáng, không thấy được cái sáng; mà đã không thấy được sáng thì làm sao họp với cái sáng và rõ biết cái sáng không phải là tối.
- Đối với cái tối, cái thông suốt, cái ngăn bịt thì cũng như vậy.
Ông A Nan bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn, như chỗ tôi suy nghĩ, cái tâm tánh ấy đối với các trần cảnh và các tâm niệm nhớ nghĩ, không hòa hợp chăng?
Phật dạy:
- Nay ông lại nói tâm tánh không hòa hợp thì tôi lại hỏi ông: Cái tánh thấy gọi là không hòa hợp đó, lại là không hòa với cái sáng, không hòa với cái tối, không hòa với cái thông suốt, hay không hòa với cái ngăn bịt?
- Nếu không hòa với cái sáng, thì giữa cái thấy và cái sáng phải có ranh giới.
- Ông nay hãy xét cho kỹ: Chỗ nào là cái sáng, chỗ nào là cái thấy. Nơi cái thấy và nơi cái sáng, thì lấy từ đâu làm ranh giới.
- A Nan, nếu bên cái sáng, chắc không có cái thấy, thì hai cái không đến với nhau, cái thấy tự nhiên không biết được cái sáng ở đâu, làm sao mà thành lập được ranh giới. Đối với cái tối, cái thông suốt, cái ngăn bịt thì cũng như vậy.
- Lại cái thấy, gọi là không hòa hợp đó, là không hợp với cái sáng, không hợp với cái tối, không hợp với cái thông suốt hay không hợp với cái ngăn bịt?
- Nếu không hợp với cái sáng, thì cái thấy với cái sáng, tánh trái ngược nhau, như cái nghe với cái sáng, không đụng chạm gì với nhau cả; thế thì, cái thấy còn không biết cái sáng ở đâu, làm sao phát minh được những lẽ hợp hay không hợp?
- Đối với cái tối, cái thông suốt, cái ngăn bịt thì cũng như vậy.
- A Nan, ông còn chưa rõ tất cả các tướng huyễn hóa nơi tiền trần, chính nơi tâm mà sanh ra, rồi theo nơi tâm mà diệt mất. Cái huyễn hóa giả dối gọi là tướng, mà cái tánh chính là tâm tánh nhiệm mầu sáng suốt; như vậy, cho đến Ngũ ấm, Lục nhập, Thập nhị xứ và Thập bát giới, nhân duyên hòa hợp giả dối có sanh ra, nhân duyên chia lìa giả dối gọi rằng diệt; mà không biết rằng sanh, diệt, đi, lại đều vốn là tánh chân như cùng khắp, không lay động, nhiệm mầu, sáng suốt, thường trụ của Như Lai tạng. Trong tâm tánh chân thường đó, cầu cho ra những cái đi, lại, mê, ngộ, sống, chết, hẳn không thể được.
- A Nan, làm sao Ngũ ấm vốn là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng.
- A Nan, ví như có người đem con mắt trong sạch, xem hư không trong sáng, chỉ thấy một hư không trong sáng, hẳn không thấy gì. Người kia, không lý do gì, lại bắt con mắt không lay động; ngó chăm mãi, phát ra mỏi mệt thì ở giữa hư không, riêng thấy có hoa đốm lăng xăng và có tất cả những tướng giả dối lộn xộn; nên biết Sắc ấm cũng lại như vậy.
- A Nan, các hoa đốm lăng xăng ấy, không phải từ hư không mà đến, không phải từ con mắt mà ra.
- Thật vậy, A Nan, nếu từ hư không mà đến, thì đã từ hư không mà đến, rồi phải trở vào hư không; mà đã có ra có vào, thì không phải là hư không nữa. Hư không, nếu lại không phải là hư không, thì tự nhiên không thể dung nạp hoa đóm sanh diệt trong ấy, như thân thể ông A Nan, không dung nạp được một ông A Nan nữa.
- Nếu hoa đốm từ con mắt mà ra, thì đã từ con mắt mà ra, rồi phải trở vào con mắt; lại cái tánh hoa đốm ấy đã từ con mắt mà ra, thì lẽ ra phải có thấy.
- Nếu như có thấy thì khi đi ra, đã làm hoa đốm giữa hư không, đến khi xoay về, phải thấy được con mắt.
- Nếu không có thấy, thì khi đi ra đã làm mờ hư không, đến khi trở về phải làm mờ con mắt. Lại như thế, khi thấy hoa đốm, lẽ ra con mắt không mờ, làm sao, chỉ khi thấy hư không trong suốt, thì mới gọi là con mắt trong sáng?
- Vậy nên biết rằng Sắc ấm là giả dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, ví như có người tay chân yên ổn, trăm vóc điều hòa, bỗng như quên mình, không có gì là trái là thuận; người ấy không lý do gì, lấy hai bàn tay xoa nhau giữa hư không, thì nơi hai bàn tay giả dối sanh ra những cảm xúc trơn, rít, lạnh, nóng. Nên biết Thọ ấm cũng lại như vậy.
- A Nan, các cảm xúc giả dối kia, không phải từ hư không mà đến, không phải từ bàn tay mà ra.
- Thật vậy, A Nan, nếu từ hư không mà đến, thì đã sanh cảm xúc nơi bàn tay, sao lại không sanh cảm xúc nơi thân thể, không lẽ hư không lại biết lựa chỗ sanh ra cảm xúc.
- Nếu như từ bàn tay mà ra, thì lẽ ra không cần hai bàn tay phải hợp lại.
- Lại đã từ bàn tay mà ra, thì khi bàn tay hợp lại, biết có cảm xúc, đến khi bàn tay rời ra, thì cảm xúc phải chạy vào và xương tủy cánh tay, lẽ ra phải biết đường vào của cảm xúc; rồi lại phải có tâm hay biết, biết ra, biết vào, và phải có một vật đi lại trong thân, sao lại phải chờ đến hai tay hợp lại mới gọi là cảm xúc.
- Vậy nên biết rằng Thọ ấm là giả dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, ví như có người, khi nghe nói đến quả mơ chua thì trong miệng có nước bọt chảy ra; khi nghĩ đến đứng trên dốc cao thì lòng bàn chân ghê rợn. Nên biết Tưởng ấm cũng lại như vậy.
- A Nan, câu chuyện mơ chua như thế, không phải do quả mơ sanh ra, không phải do cái miệng mà vào.
- Thật vậy, A Nan, nếu do quả mơ sanh ra, thì quả mơ tự nói lấy, sao phải đợi người ta nói; nếu do cái miệng mà vào, thì lẽ ra cái miệng tự nghe lấy, cần gì đến lỗ tai; nếu riêng mình lỗ tai nghe, thì nước bọt kia, sao không từ lỗ tai chảy ra. Câu chuyện nghĩ đến đứng trên dốc cao cũng giống như vậy.
- Vậy nên biết rằng Tưởng ấm là giả dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, ví như dòng nước dốc, sóng mòi nối nhau, lớp trước lớp sau, không vượt khỏi nhau. Nên biết Hành ấm cũng lại như vậy.
- A Nan, dòng nước như vậy không nhân hư không mà sanh, không nhân nước mà có, không phải tánh nước, cũng không ra ngoài hư không và nước.
- Thật vậy, A Nan, nếu nhân hư không mà sanh, thì cả thập phương hư không vô cùng tận, phải thành dòng nước vô cùng tận và tự nhiên thế giới đều bị chìm đắm cả.
- Nếu nhân nước mà có, thì dòng nước dốc ấy bản tánh lẽ ra không phải là nước nữa và hiện nay, đã có thể chỉ ra hai tướng của nước và của dòng nước khác nhau.
- Nếu dòng nước dốc tức là tánh nước thì khi nước đứng lại, lẽ ra không phải là nước nữa; nếu ra ngoài hư không và nước thì không có cái gì ở ngoài hư không và, ngoài nước ra, không thể có dòng nước.
- Vậy nên biết rằng Hành ấm là giả dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, ví như có người lấy bình tần già, bịt cả hai lỗ, rồi vác đầy bình hư không, đi xa nghìn dặm, đem cho nước khác. Nên biết Thọ ấm cũng lại như vậy.
- A Nan, cái hư không đó, không phải đến từ phương kia, cũng không phải đưa vào phương nầy.
- Thật vậy, A Nan, nếu đến từ phương kia, thì trong cái bình đã đựng hư không đem đi, ở chỗ cũ cái bình phải thiếu hư không; nếu đưa vào phương nầy, thì khi mở miệng bình trút ra, phải thấy hư không ra.
- Vậy nên biết rằng Thọ ấm là giả dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT