Skip to content

Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 10: Ma Sự – Ngũ Ấm Là Năm Vọng Tưởng – Lợi Ích Lớn Lao Của Kinh

大佛頂首楞嚴經

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh – Tập 19 – Số 945 (Mật Giáo Bộ)
Surangama Sutra – 大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經
Đại Phật Đỉnh
Như Lai Mật Nhân
Tu Chứng Liễu Nghĩa
Chư Bồ Tát Vạn Hạnh
Thủ Lăng Nghiêm Kinh
Ngài Bồ tát Long Thụ (thế kỷ II) thỉnh từ cung rồng Ta Kiệt La
Nước Trung Hoa – triều Đại Đường (618~907) – đời Trung Tông (705~710)
Ngài Sa môn Bát Lạt Mật Đế (người Thiên Trúc) dịch chép ra Phạn văn, sau đó truyền kinh sang Trung Hoa và tổng dịch năm 705
Sa môn Di Già Thích Ca (?~?) Hán dịch từ Phạn văn
Sa môn Hoài Địch (?~?) chứng minh bản dịch
Cư sĩ Phòng Dung (tể tướng đời Võ Chu) bình chương, bút thọ, bảo trợ bản dịch
Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (1897~1969) Việt dịch từ Hán văn năm 1961
daithua.com biên tập năm 2021

Quyển 10:

Ma Sự
Ngũ Ấm Là Năm Vọng Tưởng
Lợi Ích Lớn Lao Của Kinh


  • A Nan, Thiện nam tử kia, tu pháp Tam ma địa, khi Tưởng ấm đã hết, thì những mộng tưởng bình thường của người đó đã tiêu diệt, khi thức, khi ngủ, luôn luôn một thể, tánh giác minh rỗng lặng như hư không trong sạch, không còn những sự tướng tiền trần thô trọng; xem những núi sông đất liền thế gian, như gương soi sáng, khi đến, không dính vào đâu, khi qua, không có dấu vết, rỗng chịu chiếu ứng, rõ ràng không còn tập quán cũ, chỉ một tánh tinh chân.
  • Căn nguyên của sanh diệt từ đó phơi lộ ra, thấy được 12 loài chúng sanh thập phương, rõ hết các loài; tuy chưa thông suốt manh mối của mỗi chúng sanh, nhưng đã thấy cơ sở sanh diệt chung, giống như bóng dã mã, lớp lớp chớp nhoáng hiện ra, làm cái then chốt phát sanh các phù căn trần; ấy thì gọi là phạm vi Hành ấm.
  • Nếu cái cỗi gốc của những lăng xăng chớp nhoáng u ẩn đó, vào được tánh đứng lặng bản lai, những tập khí sanh diệt bản lai dừng lại như sóng mòi diệt hết, hóa thành nước đứng, thì gọi là hết Hành ấm. Người đó, thì vượt khỏi chúng sanh trược; xét lại nguyên do, cỗi gốc là u ẩn vọng tưởng.
  • A Nan nên biết, các Thiện nam tử được sự nhận biết đúng đắn trong Xa ma tha đó, chính tâm đứng lặng sáng suốt, mười loài Thiên ma không còn được dịp khuấy phá. Trong lúc nghiên cứu tinh vi cùng tột cỗi gốc sanh loại, khi cỗi gốc sanh diệt bản loại lộ ra, xét cái cỗi gốc thường chuyển động lăng xăng cùng khắp u ẩn kia, lại móng tâm so đo chấp là tánh viên nguyên, thì người đó sa vào hai cái luận vô nhân:
    • Một, là người đó thấy cái gốc không có nhân. Vì cớ sao? Người đó đã được cơ sở sanh diệt toàn lộ ra, nương theo 800 công đức của Nhãn căn, thấy trong tám muôn kiếp, tất cả chúng sanh đều theo dòng nghiệp báo mà xoay vần, chết nơi nầy, sanh nơi kia; chỉ thấy chúng sanh luân hồi trong đó, ngoài tám muông kiếp thì mờ mịt không thấy gì, bèn phát ra sự nhận định rằng, những loại chúng sanh thập phương trong thế gian nầy, trước tám muôn kiếp, không do nhân gì mà tự có. Do sự chấp trước so đo như thế, bỏ mất Chánh Biến Tri, sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề.
    • Hai, là người đó thấy cái ngọn không có nhân. Vì cớ sao? Người đó đã thấy cỗi gốc sanh diệt, biết người sanh người, rõ chim sanh chim, thấy chim quạ luôn luôn đen, chim hộc luôn luôn trắng, loài người, loài trời thân vẫn đứng thẳng, các loài súc sanh thân vẫn nằm ngang, sắc trắng không phải do tẩy mà thành, sắc đen không phải do nhuộm tạp ra, suốt tám muôn kiếp không hề dời đổi, cho đến hết đời nầy cũng như vậy; mà từ xưa đến nay, người đó không thấy gì là Bồ đề, làm sao lại còn có việc thành đạo Bồ đề, rồi nhận định tất cả các sự vật ngày nay, đều không có nguyên nhân gì cả.
  • Do những so đo, chấp trước như thế, bỏ mất tánh Chánh Biến Tri, sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề; ấy gọi là ngoại đạo thứ nhất, lập những luận vô nhân.
  • A Nan, các Thiện nam tử đó, trong Tam ma địa, chính tâm đứng lặng sáng suốt, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; trong lúc xét cùng cỗi gốc sanh loại, xét cái cỗi gốc thường chuyển động u ẩn kia, lại móng tâm so đo chấp là tánh viên thường, thì người ấy sa vào bốn cái luận biến thường:
    • Một, là người đó xét cùng bản tánh của tâm và cảnh, cả hai đều không có nhân; tu tập biết được trong hai muôn kiếp, thập phương chúng sanh có những sự sanh diệt, đều là xoay vần, không hề tan mất, nên chấp đó là thường.
    • Hai, là người đó xét cùng cỗi gốc tứ đại, thấy tứ đại thường trụ, tu tập biết được trong bốn muôn kiếp, thập phương chúng sanh tuy có sanh diệt, nhưng đều có bản thể thường hằng, không hề tan mất, nên chấp đó là thường.
    • Ba, là người đó xét cùng nguyên do bản lai của Lục căn, của sự chấp thụ thức Mạt na và của các tâm, ý, ý thức, thấy tánh vẫn thường xuyên; tu tập biết được trong tám muôn kiếp, tất cả chúng sanh xoay vần không mất, bản lai là thường trụ; rồi xét tột tánh không mất đó, mà chấp là thường.
    • Bốn, là người đó nghĩ rằng đã hết Tưởng ấm, lẽ ra không còn lưu chuyển, đứng lặng xoay vần; tư tưởng sanh diệt đã diệt hết rồi, thì trong lý tự nhiên thành không sanh diệt; người đó, nhân tâm niệm so đo như thế, mà chấp là thường.
  • Do những sự chấp thường ấy, bỏ mất Chánh Biến Tri, đọa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ hai, lập những luận viên thường.
  • Lại các Thiện nam tử đó, trong Tam ma địa, chính tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; trong lúc xét cùng cỗi gốc sanh loại, xét cái cỗi gốc thường chuyển động u ẩn kia, lại móng tâm so đo chấp trước giữa mình và cái khác, thì người đó mắc vào bốn Kiến chấp điên đảo, là những luận một phần vô thường, một phần thường:
    • Một là người đó quán cái tâm diệu minh lặng vậy cùng khắp thập phương thế giới, cho là cái thần ngã rốt ráo; do đó, chấp có cái ta cùng khắp mười phương đứng lặng sáng suốt không lay động, còn tất cả chúng sanh, thì ở trong tâm ta tự sanh, tự chết; vậy tâm tánh của ta, thì gọi là thường, còn những bọn sanh diệt kia, thì thật là vô thường.
    • Hai, là người đó không xét cái tâm, lại xét khắp hằng sa quốc độ trong mười phương, thấy có chỗ bị kiếp tai phá hoại, thì cho là có tánh rốt ráo vô thường, còn những chỗ không bị kiếp tai phá hoại, thì gọi là rốt ráo thường.
    • Ba, là người đó quán sát riêng cái tâm mình là tinh tế nhỏ nhiệm giống như vi trần, là tinh tế nhỏ nhiệm giống như vi trần, lưu chuyển trong mười phương mà tánh không dời đổi, lại có thể khiến cái thân nầy, sanh rồi lại diệt; rồi chấp cái tánh không mất đó, là tánh thường của mình, còn tất cả sự sống chết, từ tánh ấy sanh ra, thì gọi là vô thường.
    • Bốn, là người đó biết Tưởng ấm hết rồi, thấy được dòng Hành ấm, chấp cái lưu chuyển thường xuyên của Hành ấm là tánh thường, còn những Sắc ấm, Thọ ấm, Tưởng ấm hiện đã diệt hết, thì gọi là vô thường.
  • Do những chấp trước so đo một phần vô thường, một phần thường như thế, mà sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề; ấy gọi là ngoại đạo thứ ba, lập những luận một phần thường.
  • Lại các Thiện nam tử, trong Tam ma địa, chính tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; khi xét cùng cỗi gốc sanh loại, xét cỗi gốc thường chuyển động u ẩn kia, lại sanh tâm so đo chấp trước về phận vị, thì người đó sa vào bốn cái luận hữu biên:
    • Một, là người đó so đo cái cỗi gốc sanh diệt lưu chuyển không ngừng, rồi chấp quá khứ, vị lai, là hữu biên và chấp cái tâm tương tục, là vô biên.
    • Hai, là người đó xét trong tám muôn kiếp thì thấy chúng sanh, còn trước tám muôn kiếp thì bặt không nghe thấy gì, rồi gọi chỗ không nghe thấy, là vô biên, còn chỗ có chúng sanh, là hữu biên.
    • Ba, là người đó chấp rằng mình biết cùng khắp, là được tánh vô biên, còn tất cả các người kia, hiện ra trong cái biết của mình, mà mình không hề biết họ nhận được tánh biết, thì những người kia không được cái tâm vô biên và chỉ có tánh hữu biên.
    • Bốn, là người dó khi xét cùng diệt trừ Hành ấm, dùng tri kiến của mình, mà so đo chấp tất cả chúng sanh trong mỗi cái thân, đều là phần nửa sanh, phần nửa diệt và chấp tất cả sự vật có ra trong thế giới, đều một nửa là hữu biên, một nửa là vô biên. 
  • Do những so đo, chấp trước hữu biên, vô biên như thế, sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ tư, lập những luận hữu biên.
  • Lại các Thiện nam tử, trong Tam ma địa, chính tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; trong lúc xét cùng cỗi gốc sanh loại, xét cái cỗi gốc thường chuyển động u ẩn kia, sanh lòng so đo chấp trước về tri kiến, thì người đó mắc vào bốn thứ luận hư vọng điên đảo biến kế, càn loạn bất tử:
    • Một, là người đó quán sát cỗi gốc biến hóa, thấy chỗ dời đổi, thì gọi là biến, thấy chỗ tương tục, thì gọi là thường, thấy chỗ thấy được, thì gọi là sanh, chỗ không thấy được, thì gọi là diệt; chỗ các nhân tương tục, không có đứt đoạn, thì gọi là thêm; chính trong tương tục, chỗ rời nhau ở giữa, thì gọi là giảm; chỗ mỗi mỗi cái sanh ra, thì gọi là có, chỗ tương đối không có, thì gọi là không, dùng lý quán sát tất cả và dụng tâm thành những Kiến chấp riêng biệt; có người đến cầu pháp hỏi nghĩa, thì đáp rằng Ta nay cũng sanh, cũng diệt, cũng có, cũng không, cũng thêm, cũng bớt, trong tất cả thời đều nói lộn xộn, khiến cho người nghe không thể hiểu được.
    • Hai, là người đó chín xét cái tâm về chỗ tương đối là không, nhân cái không mà được chứng; có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, chỉ nói là không; ngoài chữ không ra, không nói gì cả.
    • Ba, là người đó chín xét cái tâm về chỗ mỗi mỗi đều có, nhân cái đó mà được chứng; có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, chỉ nói là phải; trừ chữ phải ra, không nói gì cả.
    • Bốn, là người đó chấp cả có, cả không; do cái cảnh rời rạc mà tâm cũng rối loạn; có người đến hỏi thì đáp rằng: Cũng có, tức là cũng không, trong cái cũng không, không phải là cũng có; tất cả đều càn loạn, không thể nói hết được.
  • Do những so đo, chấp trước càn loạn, rỗng trống như thế, mà sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề; ấy gọi là ngoại đạo thứ năm, lập bốn thứ luận hư vọng, điên đảo biến kế, càn loạn bất tử.
  • Lại các Thiện nam tử, trong Tam ma địa, chính tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; trong lúc xét cùng cỗi gốc sanh loại, xét cái cỗi gốc thường chuyển động u ẩn kia, sanh tâm so đo chấp trước nơi dòng sanh diệt vô tận, thì người ấy sa vào tư tưởng điên đảo, chấp sau khi chết có tướng.
  • Hoặc khi tự củng cố cái thân mình, bảo Sắc là ta; hoặc khi thấy cái ta bao trùm khắp các cõi nước, rồi bảo rằng ta có Sắc; hoặc thấy các tiền trần kia, theo ta mà xoay trở về, rồi bảo rằng Sắc thuộc về ta; hoặc thấy cái ta, nương theo lưu chuyển mà tương tục, rồi bảo rằng ta ở nơi Sắc; những người đó, đều so đo chấp rằng sau khi chết có tướng; xoay vần như thế có đến 16 tướng.
  • Từ đó, hoặc còn chấp rằng rốt ráo phiền nãp và rốt ráo Bồ đề, hai tánh ấy đi song song với nhau, không đụng chạm gì nhau.
  • Do những so đo, chấp sau khi chết có tướng như vậy, sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề; ấy gọi là ngoại đạo thứ sáu, lập những luận điên đảo, nhận trong Ngũ ấm, sau khi chết có tướng.
  • Lại các Thiện nam tử, trong Tam ma địa, chính tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; khi xét cùng cỗi gốc sanh loại, xét cái cỗi gốc thường lay động u ẩn kia, lại sanh tâm so đo chấp trước nơi ba ấm Sắc, Thọ, Tưởng, đã trừ diệt rồi thì người đó sa vào những tư tưởng điên đảo, chấp sau khi chết không có tướng.
  • Người đó thấy Sắc ấm diệt, thân hình không nhân vào đâu; xét Tưởng ấm diệt, tâm không ràng buộc vào đâu; biết Thọ ấm diệt, không còn dính dáng vào đâu; tánh các ấm đó đã tiêu tan, dầu có sanh lý mà không thụ, không tưởng, thì cũng đồng như cỏ cây; rồi nghĩ rằng hình chất nầy, hiện tiền còn không thể nắm được, làm sao, sau khi chết lại còn có các tướng; nhân đó, xét nhận sau khi chết, không có tướng; xoay vần như thế có đến tám cái luận vô tướng.
  • Từ đó, hoặc chấp Niết bàn, nhân quả, tất cả đều không, luống có danh tự, nhưng rốt ráo đều đoạn diệt.
  • Do những so đo, chấp sau khi chết không có tướng như vậy, sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ bảy, lập những luận điên đảo, chấp trong Ngũ ấm, sau khi chết không có tướng.
  • Lại các Thiện nam tử, trong Tam ma địa, chính tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; khi xét cùng cỗi gốc sanh loại, xét cái cỗi gốc thường chuyển động u ẩn kia, nơi Hành ấm còn và Thọ, Tưởng đã diệt, chấp cả cái có và cái không, tự thể phá nhau, thì người đó mắc vào những luận điên đảo, chấp sau khi chết, không phải có, không phải không.
  • Người đó, thấy những ấm Sắc, Thọ, Tưởng, có mà không phải có; xét Hành ấm chuyển biến, không mà không phải không; xoay vần như thế cùng tột các ấm, thành tám cái tướng không phải có, không phải không, tùy gặp duyên gì, đều nói sau khi chết có tướng, không tướng.
  • Lại xét tánh Hành ấm sanh diệt thay đổi liên tục, phát tâm thông suốt, chấp tất cả đều không phải có, không phải không, lộn lạo hư thật.
  • Do những so đo, chấp sau khi chết không phải có, không phải không như thế, mà đường sau mờ mịt, không còn lối đi, sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề; ấy gọi là ngoại đạo thứ tám, lập những luận điên đảo, chấp trong Ngũ ấm, sau khi chết, không phải có, không phải không.
  • Lại các Thiện nam tử, trong Tam ma địa, chính tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; trong lúc xét cùng cỗi gốc sanh loại, xét cái cỗi gốc thường chuyển động u ẩn kia, sanh tâm so đo, chấp sau nầy là không, thì người đó mắc vào bảy cái luận đoạn diệt.
  • Hoặc chấp hết thân nầy là diệt, hoặc chấp hết Ngũ dục là diệt, hoặc chấp hết khổ là diệt, hoặc chấp tột vui là diệt, hoặc chấp xả hết là diệt; xoay vần như thế cùng tột đến bảy cách chấp hiện tiền là tiêu diệt, diệt rồi không trở lại nữa. Do những so đo, chấp sau khi chết là đoạn diệt như thế, sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề; ấy gọi là ngoại đạo thứ chín, lập những luận điên đảo, chấp trong Ngũ ấm, sau khi chết là đoạn diệt.
  • Lại các Thiện nam tử, trong Tam ma địa, chính tâm đứng lặng vững chắc, Thiên ma không còn dịp khuấy phá; trong lúc xét cùng cỗi gốc sanh loại, xét cái cỗi gốc thường chuyển động u ẩn kia, sanh tâm so đo, chấp sau nầy là có, thì người đó mắc vào năm luận Niết bàn.
  • Hoặc nhận những định Dục Giới là chuyển y chân chính, do xem thấy sáng suốt cùng khắp, mà sanh lòng yêu mến vậy. Hoặc nhận Sơ Thiền là chuyển y chân chính, vì không còn ưu thụ vậy. Hoặc nhận Nhị Thiền, vì không khổ thụ vậy. Hoặc nhận Tam Thiền, vì rất vui đẹp vậy. Hoặc nhận Tứ Thiền, khổ vui đã hết, chấp không còn chịu sanh diệt trong luân hồi vậy. Người đó, lầm những cõi trời hữu lậu là quả vô vi, lầm sự an ẩn 5 chỗ ấy là quả báo thù thắng thanh tịnh của các bậc thánh hiền; xoay vần như thế rốt ráo có năm chỗ.
  • Do những so đo, chấp trước năm thứ Niết bàn hiện có như thế, sa lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề; ấy gọi là ngoại đạo thứ mười, lập những luận điên đảo, chấp trong Ngũ ấm, có năm thứ Niết bàn hiện có.
  • A Nan, mười thứ nhận hiểu điên rồ trong Thiền na như thế, đều do Hành ấm và tâm công dụng giao xen, nên hiện ra những nhận thức đó. Chúnh sanh ngu mê, không tự lượng xét, gặp cái đó hiện ra, lại nhận mê làm ngộ, tự bảo là chứng bậc thánh, thành tội đại vọng ngữ và sẽ đọa vào ngục Vô Gián. 
  • Bọn ông, quyết phải đem lời nầy của Như Lai, sau khi tôi diệt độ rồi, truyền lại trong đời mạt pháp, khiến cho tất cả chúng sanh hiểu rõ nghĩa nầy, không để cho tâm ma tự gây nên những tội lỗi sâu nặng, giữ gìn che chở cho chúng sanh tiêu diệt các tà kiến, dạy cho Giác ngộ đạo nghĩa chân thật, không mắc vào các đường trẽ nơi đạo vô thượng, chớ để chúng sanh được một ít đã cho là đủ và nêu ra lời chỉ dạy thanh tịnh của vị Đại Giác.

  • A Nan, Thiện nam tử kia, tu phép Tam ma địa, khi Hành ấm hết rồi, thì cái then chốt lay động u ẩn chung, sanh ra các loài thế gian, bỗng được xóa bỏ; giềng mối vi tế, quan hệ sâu xa gây nghiệp chịu báo của ngã thể chúng sanh, cảm ứng đều bặt dứt. Người đó, hầu được đại Giác ngộ nơi bản tánh Niết bàn, như khi gà gáy tan, xem qua phương Đông, đã có ánh sáng.
  • Sáu căn rỗng lặng, không còn rong ruổi nữa; trong và ngoài đều lặng sáng, vào được tánh vô sở nhập, thấu suốt nguyên do thụ sanh của 12 loài mười phương; xét rõ nguyên nhân do chấp trước gây nên, các loài không thể hấp dẫn được; nơi thập phương thế giới, đã nhận được tánh đồng; tánh tinh vi ấy còn tồn tại, phát hiện ra một cách bí ẩn, ấy thì gọi là phạm vi của Thọ ấm.
  • Nếu trong tánh đồng đã chứng được của các loài, huân tập tiêu hóa Lục căn, làm cho khi hợp, khi chia được tự tại, cái thấy, cái nghe thông nhau, tác dụng thanh tịnh thay thế lẫn nhau, thì thập phương thế giới với lại thân tâm đều như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt; thế gọi là hết Thọ ấm. Người đó, mới vượt khỏi mạng trược; xét lại nguyên do, cỗi gốc là vọng tưởng điên đảo, huyễn hóa rỗng không. 
  • A Nan nên biết Thiện nam tử đó, đã xét cùng tánh không của các Hành, trở về bản tánh của thức, đã diệt được sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Người đó, có thể khiến nơi thân mình, các căn khác nhau khi hợp, khi chia và thông suốt với sự hay biết các loài thập phương; cái hay biết đó thông suốt vẳng lặng, có thể vào tánh bản viên. Nếu nơi chỗ quay về, lại lập ra cái nhân chân thường, và quyết định như thế là đúng, thì người đó, sa vào cái chấp nhân sở nhân, trở thành bạn bè với bọn Sa Tỳ Ca La chấp có Minh Đế, mê muội Bồ đề của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến; ấy gọi là bọn thứ nhất, lập cái tâm sở đắc, thành cái quả sở quy, trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết bàn, sanh ra giống ngoại đạo.
  • A Nan, lại Thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các Hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt; nếu nơi tánh đã nhập được, lại ôm làm tự thể của mình, cho rằng tất cả chúng sanh trong mười hai loài, cùng tột hư không, đều từ trong thân mình phát sanh ra và quyết định như thế là đúng, thì người đó, sa vào cái chấp năng phi năng, thành bạn bè với bọn Ma Hê Thủ La, hiện ra thân vô biên, mê muội Bồ đề của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến; ấy gọi là bọn thứ hai, lập cái tâm năng vi, thành cái quả năng sự, trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết bàn, sanh ra giống đại mạn thiên, chấp cái ta cùng khắp viên mãn.
  • Lại Thiện nam tử kia, xét cùng tánh không các Hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu trong lúc quay về, thấy có chỗ sở quy, lại tự nghĩ thân tâm mình từ chỗ kia sanh ra và cả thập phương hư không cũng đều do chỗ kia sanh ra, rồi tức nơi cái chỗ sanh ra tất cả đó, nhận là cái thể chân thường không sanh diệt. Như thế, là ở trong sanh diệt sớm chấp là thường trụ, chẳng những lầm tánh bất sanh, mà cũng mê tánh sanh diệt; an trụ trong mê lầm, trầm trọng, mà quyết định là đúng, thì người ấy, sa vào cái chấp Thường Phi Thường, thành bè bạn của những kẻ chấp có Tự Tại thiên, mê muội Bồ đề của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến; ấy gọi là bọn thứ ba, lập cái tâm nhân y, thành cái quả vọng kế, trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết bàn, sanh ra giống đảo viên. 
  • Lại Thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các Hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu nơi chỗ hay biết, nhân sự hay biết cùng khắp mà lập ra cái nhận thức rằng cỏ cây thập phương đều gọi là hữu tình, cùng người không khác; rằng cỏ cây làm người, người chết rồi trở lại thành cỏ cây thập phương; nơi cái hay biết cùng khắp, không có lựa chọn và quyết định như thế là đúng, thì người ấy, sa vào cái chấp Tri Vô Tri thành bạn bè của bọn Bà tra, Tiển ni, chấp tất cả đều có hay biết, mê muội Bồ đề của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến; ấy gọi là bọn thứ tư, chấp cái tâm viên tri, thành cái quả sai lầm, trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết bàn, sanh ra giống đảo tri.
  • Lại Thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các Hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu trong lúc, đã được tùy thuận tánh viên dung của các căn dùng thay lẫn nhau, lại nơi tánh viên dung biến hóa phát sanh, cầu cái ánh sáng của Hỏa đại, ưa cái thanh tịnh của Thủy đại, yêu cái chu lưu của Phong đại, xét cái thành tựu của Địa đại, rồi sùng phụng, mỗi mỗi cái, nhận những Tứ đại kia là bản nhân và lập nó làm tánh thường trụ, thì người đó, sa vào cái chấp Sanh Vô Sanh, thành bè bạn của bọn Ca Diếp và bọn Bà la môn, đem hết thân tâm thờ lửa, thờ nước để cầu ra khỏi sống chết; mê muội Bồ đề của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến; ấy gọi là bọn thứ năm, chấp trước phụng thờ, mê tâm theo vật, lập cái nhân hư vọng, để mong cầu cái quả giả dối, trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết bàn, sanh ra giống điên hóa.
  • Lại Thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các Hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu nơi cảnh viên minh, chấp cái rỗng trống trong viên minh, bác bỏ tiêu diệt các sự vật biến hóa, lấy cái tánh diệt hẳn, làm chỗ quy y của mình và quyết định như thế là đúng, thì người đó, sa vào cái chấp Quy Vô Quy, thành bạn bè của bọn chấp không trong Vô Tưởng thiên, mê muội Bồ đề của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến; ấy gọi là bọn thứ sáu, viên thành cái tâm hư vô, lập ra cái quả không vong, trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết bàn, sanh ra giống đoạn diệt.
  • Lại Thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các Hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu nơi tánh viên thường, củng cố cái thân cho thường trụ như tánh ấy, mãi không suy mất và quyết định như thế là đúng, thì người ấy, sa vào cái chấp Tham Phi Tham, thành bè bạn của bọn A Tư Đà, cầu được trường sinh, mê muội Bồ đề của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến; ấy gọi là bọn thứ bảy, chấp trước cái mạng căn, lập cái nhân củng cố vọng thân, đi đến cái quả kéo dài sự nhọc nhằn, trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết bàn, sanh ra giống vọng điên.
  • Lại Thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các Hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt, xét chỗ các mạng thông lẫn với nhau, lại muốn giữ lại trần lao, sợ nó tiêu hết; khi ấy bèn ngồi cung hoa sen, hóa ra rất nhiều bảy thứ trân bảo và những gái đẹp, buông lung tâm mình và quyết định như thế là đúng, thì người ấy sa vào cái chấp Chân Vô Chân, thành bè bạn của bọn Cha Chỉ Ca La, mê muội Bồ đề của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến; ấy gọi là bọn thứ tám, lập cái nhân tà tư, thành cái quả xí trần, trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết bàn, sanh ra giống Thiên ma.
  • Lại Thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các Hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nơi thức thể viên minh, cỗi gốc của sanh mạng, phân biệt chỗ tinh, chỗ thô, quyết đoán chỗ chân, chỗ ngụy; nơi nhân quả đền đáp, chỉ cầu cảm ứng, trái với đạo thanh tịnh; nghĩa là, chỉ thấy Khổ đế, đoạn Tập đế, chứng Diệt đế, tu Đạo đế; ở nơi Diệt đế đã yên rồi, lại không cầu tiến thêm nữa và quyết định như thế là đúng, thì người ấy, sa vào hàng định tánh Thanh văn, thành bè bạn của hàng Vô văn tăng, bị tăng thượng mạn, mê muội Bồ đề của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến; ấy gọi là bọn thứ chín, viên mản tâm tinh ứng, thành cái quả thú tịch; trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết bàn, sanh ra giống triền không.
  • Lại Thiện nam tử kia, xét cùng tánh không của các Hành, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của tịch diệt. Nếu ở nơi tánh Giác minh thanh tịnh viên dung, phát minh tánh thâm diệu, liền nhận là Niết bàn mà không tiến lên và quyết định như thế là đúng, thì người ấy, sa vào hàng định tánh Bích chi, thành bè bạn của các vị Duyên giác, Độc giác, không biết hồi tâm hướng về Đại thừa, mê muội Bồ đề của Phật, bỏ mất Chánh tri kiến; ấy gọi là bọn thứ mười, viên thành giác tâm vẳng lặng, lập ra cái quả trạm minh, trái xa tánh viên thông, đi ngược đạo Niết bàn, sanh ra giống Giác ngộ viên minh, nhưng không hóa được tánh viên.
  • A Nan, mười thứ Thiền na như thế, giữa đường hóa điên, nhân nương theo sự mê lầm, trong chỗ chưa đủ, lại nhận là đã chứng đầy đủ; đều do Thọ ấm và tâm công dụng giao xen, nên sanh những vị như thế. Chúng sanh mê mờ, không biết tự xét, gặp cái đó hiện tiền, mỗi mỗi đều dùng cái tâm mê lầm, còn ưa thích những tập quán cũ, mà tự dừng nghỉ, cho đó là chỗ quay về rốt ráo, tự bảo đã đầy đủ đạo Vô thượng Bồ đề, thành tội đại vọng ngữ. Bọn ngoại đạo tà ma, khi nghiệp báo chiêu cảm hết rồi, thì sa vào ngục Vô Gián; hàng Thanh văn, Duyên giác thì không tiến thêm được nữa. 
  • Bọn ông để tâm giữ đạo Như Lai, sau khi tôi diệt độ rồi, đem Pháp môn nầy truyền bày trong đời mạt pháp, khiến cho tất cả chúng sanh đều rõ biết nghĩa nầy, không để cho những ma tà kiến tự gây ra nạn lớn cho mình, giữ gìn thương cứu, tiêu dứt các tà duyên, khiến cho thân tâm vào được tri kiến của Phật, từ lúc ban đầu đến khi thành tựu, không mắc các đường trẽ.
  • Pháp môn như thế, các Đức Như Lai như số vi trần, trong hằng sa kiếp quá khứ, đều vận dụng nó mà khai ngộ đạo vô thượng. Khi Thọ ấm hết rồi, thì hiện tiền các căn của ông đều được dùng thay lẫn nhau. Từ chỗ các căn dùng thay lẫn nhau, ông sẽ lên bậc Kim cang Càn huệ Bồ tát; cái tâm tinh diệu viên minh phát hóa trong ấy, như mặt trăng báu ở trong ngọc lưu ly trong sạch. 
  • Rồi, cứ thế vượt lên các vị Thập tín, Thập trụ, Thập hành, Thập hồi hướng, Tứ gia hạnh tâm và Thập địa Kim cang Bồ tát; tánh Đẳng giác được viên minh vào bể Diệu trang nghiêm của Như Lai, viên mãn đạo Bồ đề, về chỗ vô sở đắc.

  • Đó là những ma sự vi tế, mà các Đức Phật Thế Tôn, đời quá khứ trước, đã Giác ngộ, nghiệm xét và phân tích trong lúc tu chỉ và tu quán. Nếu khi cảnh ma hiện tiền, ông nhận biết được, thì rửa trừ được cấu nhiễm, không mắc các tà kiến; ấm ma đều tiêu diệt, Thiên ma bị đánh tan, Đại lực quỷ thần hoảng hốt chạy trốn, lỵ mỵ vọng lượng không sanh ra được, thì đi thẳng đến Bồ đề, không có các điều thiếu sót. Những căn hạ liệt cũng được tăng tiến, đối với Đại Niết bàn, tâm không mê lầm. 
  • Nếu các chúng sanh ngu độn trong đời mạt pháp, chưa hiểu Thiền na, không biết Phật pháp, mà ưa tu Tam ma địa, ông e họ mắc vào tà kiến, thì nên một tâm khuyên bảo họ thụ trì chú Phật Đỉnh Đà la ni của tôi; nếu chưa tụng được, thì viết nơi thiền đường, hoặc đeo trong thân; như thế, tất cả các ma không thể động đến được. Ông nên kính vâng lời dạy bảo cuối cùng về đường tu tiến rốt ráo của thập phương Như Lai.

Ông A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nghe Phật dạy bảo, đỉnh lễ kính vâng, ghi nhớ không sót, ở trong đại chúng lại bạch Phật rằng:

  • Như lời Phật dạy, trong tướng Ngũ ấm, có năm thứ hư vọng làm cái tưởng cỗi gốc, chúng tôi bình thường chưa được nhờ Đức Như Lai khai thị tỷ mỷ như thế. 
  • Lại Ngũ ấm ấy, là tiêu trừ một lần hay theo thứ lớp mà hết? 
  • Năm lớp như thế, đến đâu làm giới hạn? 
  • Xin nguyện Đức Như Lai phát lòng đại từ, làm cho tâm và con mắt đại chúng nầy được trong sáng, để làm đạo nhãn tương lai cho tất cả chúng sanh trong đời mạt pháp.

Phật bảo ông A Nan:

  • Tánh tinh chân là diệu minh, tánh bản giác là viên tịnh, không còn để lại những sự sống chết và các trần cấu; cho đến cả cái hư không, cũng đều nhân vọng tưởng mà sanh khởi ra. 
  • Tất cả cái ấy, gốc nơi bản giác diệu minh chân tánh, vọng phát sanh ra các khí thế gian, như anh Diễn Nhã Đa mê cái đầu, mà nhận cái bóng. Vọng vốn không có nhân; ở trong vọng tưởng lập ra tánh nhân duyên, khi mê tánh nhân duyên, thì gọi là tự nhiên. Cả tánh hư không kia, còn thật là huyễn hóa sanh ra và nhân duyên, tự nhiên đều là những sự so đo của vọng tâm chúng sanh.
  • A Nan, biết do vọng sanh khởi ra, mà nói nhân duyên vọng; nếu cái vọng vốn không, thì nhân duyên vọng đó, vốn không có gì, huống nữa, không biết mà cho là tự nhiên; vậy nên Như Lai phát minh cho các ông rằng bản nhân của Ngũ ấm, đồng là vọng tưởng.
  • Thân thể của ông trước kia, nhân cái tưởng của cha mẹ mà sanh, tâm của ông, nếu không phải là tưởng, thì không thể đến gá cái mạng vào trong tưởng. Như trước tôi đã nói: Tâm tưởng vị chua, trong miệng nước bọt sanh ra; tâm tưởng lên cao, trong lòng bàn chân nghe ghê rợn; dốc cao không có, vật chua chưa đến, cái thân thể của ông nếu không phải cùng loài hư vọng, thì làm sao nhân nghe nói chua, trong miệng nước bọt lại chảy ra; vậy ông nên biết, sắc thân hiện tiền của ông, gọi là vọng tưởng kiên cố thứ nhất.
  • Tức nơi tâm tưởng tượng việc lên cao, vừa nói trước kia, nó có thể khiến thân ông thật chịu ghê rợn; nhân các thụ sanh ra, có thể xúc động đến sắc thân. Vậy hiện nay, hai thứ thụ thuận ích và vi tổn đang rong ruổi nơi ông, thì gọi là vọng tưởng hư minh thứ hai.
  • Do những ý nghĩ sai khiến sắc thân của ông; nếu sắc thân không phải cùng loài, thì làm sao thân ông lại theo ý nghĩ sai khiến, nhận các thứ hình tượng, sanh tâm chấp nhận các hình, phù hợp với ý nghĩ; lúc thức là tưởng tâm, lúc ngủ làm chiêm bao. Vậy những vọng tánh lay động tưởng nghĩ của ông gọi là vọng tưởng dung thông thứ ba.
  • Sự chuyển hoá không dừng, xoay vần thầm thầm dời đổi; móng tay dài, tóc sanh ra, khí lực tiêu, da mặt nhăn, ngày đêm thay đổi, mà không hề hay biết. 
  • A Nan, nếu cái đó không phải là ông, thì làm sao thân ông, lại dời đổi; nhưng, nếu nó thật là ông, thì sao ông lại không hay biết. 
  • Vậy, các hành niệm niệm không dừng của ông, gọi là vọng tưởng u ẩn thứ tư.
  • Lại chỗ tinh minh đứng lặng, không lay động của ông, gọi là thường còn, thì nơi thân ông, không ra ngoài những sự thấy, nghe, hay, biết. Nếu nó thật là tánh tinh chân, thì không thể huân tập được điều vọng; vì thế nhân gì bọn ông, trong mấy năm trước, đã từng xem một vật lạ; trải qua nhiều năm không hề nghĩ đến; về sau bỗng nhiên thấy vật lạ đó, thì nhớ lại rõ ràng, không có thiếu sót; vậy trong tánh tinh minh đứng lặng, không lay động ấy, từng niệm từng niệm chịu huân tập, không thể tánh toán hết được. 
  • A Nan, nên biết cái đứng lặng đó, không phải thật, như nước chảy gấp, trông như đứng lặng, vì chảy gấp mà không thấy, chứ không phải không chảy. Nếu cỗi gốc cái đó, không phải vọng tưởng, thì đâu lại chịu để hư vọng huân tập. Nếu Lục căn của ông chưa được tự tại chia hợp, dùng thay lẫn nhau, thì cái vọng tưởng đó không lúc nào diệt được. 
  • Vậy nên hiện nay, cái tập khí quán xuyến tập trung những điều thấy, nghe, hay, biết của ông, là cái vọng tưởng điên đảo vi tế, huyễn hóa, rỗng trống thứ năm, trong tánh trạm liễu của ông.
  • A Nan, năm cái ấm đó, do năm vọng tưởng tạo thành. Nay ông muốn biết giới hạn sâu cạn, thì chỉ sắc và không là biên giới của Sắc ấm, chỉ xúc và ly là biên giới của Thọ ấm; chỉ nhớ và quên là biên giới của Tưởng ấm; chỉ diệt và sanh là biên giới của Hành ấm; đứng lặng vào hợp với đứng lặng là biên giới của Thọ ấm.
  • Năm ấm ấy vốn trùng điệp sanh khởi; sanh, nhân Thọ ấm mà có, diệt, từ Sắc ấm mà trừ; lý, thì ngộ liền, nhân cái ngộ đều tiêu; sự, không phải trừ liền, theo thứ lớp mà diệt hết.
  • Tôi đã chỉ cho ông về cái nút khăn Kiếp ba la, có chỗ nào không rõ mà ông phải hỏi lại. Tâm ông cần phải thông suốt về cỗi gốc vọng tưởng đó, rồi đem truyền bày cho những người tu hành trong đời mạt pháp sau nầy, khiến cho họ biết hư vọng, tự sanh nhàm chán và biết có Niết bàn, không luyến tiếc ba cõi.

  • A Nan, ví như có người đem các thứ thất bảo đầy nhẩy hư không cùng khắp mười phương, dâng lên chư Phật như số vi trần, vâng thờ cúng dường, tâm không lúc nào xao lãng; ý ông nghĩ thế nào, người đó, do nhân duyên cúng dường Phật như thế, được phúc có nhiều chăng?

Ông A Nan đáp rằng:

  • Hư không không hết, trân bảo không cùng; ngày xưa, có chúng sanh cúng Phật bảy đồng tiền, đến khi xả thân, còn được vị Chuyển Luân vương; huống nữa, hiện tiền hư không đã cùng hết, cõi Phật đã đầy khắp và đều cúng đồ trân bảo, thì dầu suy nghĩ cùng tột các kiếp, cũng không thể thấu được; phúc ấy làm sao còn có bờ bến.

Phật bảo ông A Nan:

  • Chư Phật Như Lai, lời nói không hư vọng. Ví như có người gây đủ các tội tứ trọng, thập ba la di, giây lát phải trải qua địa ngục A Tỳ phương nầy phương khác, cho đến cùng tột các địa ngục Vô Gián thập phương, không nơi nào, không phải trải qua; nếu người đó, dùng một niệm đem Pháp môn nầy, khai thị cho người chưa học trong đời mạt pháp thì tội chướng người đó liền được tiêu diệt, biến cái nhân phải chịu khổ địa ngục, thành cái nhân sanh về An Lạc quốc, được phúc vượt hơn người thí cúng trước kia, trăm lần, ngàn lần, ngàn vạn ức lần, như thế, cho đến toán số thí dụ không thể nói hết được.

  • A Nan, nếu có chúng sanh, biết tụng kinh nầy, biết trì chú nầy, như tôi nói rộng ra, thì cùng tột các kiếp cũng không hết; nếu nương theo lời dạy của tôi, y như lời dạy mà tu hành, thì thẳng đến đạo Bồ đề, không còn có các ma sự.

Phật nói kinh nầy rồi, các vị Tỳ kheo, tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, tất cả loài trời, loài nguời, loài A tu la thế gian, các vị Bồ tát, Nhị thừa, thánh tiên, đồng tử cõi khác và các Đại lực quỷ thần mới phát tâm, đều rất vui mừng, làm lễ mà lui.


NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT