Skip to content

Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 9: Ma Chướng Trên Đường Tu Tập

大佛頂首楞嚴經

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh – Tập 19 – Số 945 (Mật Giáo Bộ)
Surangama Sutra – 大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經
Đại Phật Đỉnh
Như Lai Mật Nhân
Tu Chứng Liễu Nghĩa
Chư Bồ Tát Vạn Hạnh
Thủ Lăng Nghiêm Kinh
Ngài Bồ tát Long Thụ (thế kỷ II) thỉnh từ cung rồng Ta Kiệt La
Nước Trung Hoa –  triều Đại Đường (618~907) –  đời Trung Tông (705~710)
Ngài Sa môn Bát Lạt Mật Đế (người Thiên Trúc) dịch chép ra Phạn văn, sau đó truyền kinh sang Trung Hoa và tổng dịch năm 705
Sa môn Di Già Thích Ca (?~?) Hán dịch từ Phạn văn
Sa môn Hoài Địch (?~?) chứng minh bản dịch
Cư sĩ Phòng Dung (tể tướng đời Võ Chu) bình chương, bút thọ, bảo trợ bản dịch
Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (1897~1969) Việt dịch từ Hán văn năm 1961
daithua.com biên tập năm 2021

Quyển 9:

Ma Chướng Trên Đường Tu Tập


  • A Nan, tất cả những người tu tâm trong thế gian, không nhờ Thiền na, thì không có trí huệ.
  • Người nào giữ được cái thân không làm việc dâm dục, trong lúc đi, lúc ngồi, đều không nghĩ nhớ, lòng ái nhiễm không sanh, không còn ở trong Dục Giới, thì bản thân liền được làm Phạm lữ; một loài như thế, gọi là Phạm Chúng thiên.
  • Tập quán ngũ dục đã trừ rồi, tâm ly dục hiện ra, vui vẻ thuận theo các luật nghi, thì người đó liền có thể thực hành những Phạm đức; một loài như thế, gọi là Phạm Phụ thiên.
  • Thân tâm hoàn toàn thanh tịnh, uy nghi không thiếu, cấm giới trong sạch, lại có thêm trí sáng, thì người đó liền được thống lĩnh Phạm chúng, làm Đại Phạm vương; một loài như thế, gọi là Đại Phạm thiên.
  • A Nan, ba loài tốt đó, tất cả khổ não không bức bách được; tuy không phải chân chính tu phép Tam ma địa của đạo Phật, nhưng trong tâm thanh tịnh, những lầm lạc của Dục Giới không lay động được, nên gọi là Sơ Thiền.
  • A Nan, thứ nữa, các hàng Phạm Thiên khi thống lĩnh phạm chúng, lại tu tập Phạm hạnh được viên mãn, làm cho tâm đứng lặng không lay động, và do sự đứng lặng ấy, sanh ra sáng suốt; một loài như thế, gọi là Thiểu Quang thiên.
  • Hào quang sáng suốt thêm nhiều, chói sáng không cùng, ánh vào thập phương thế giới đều thành trong sáng như ngọc lưu ly; một loài như thế, gọi là Vô Lượng Quang thiên.
  • Nắm giữ hào quang viên mãn, tạo thành giáo thể, phát ra sự giáo hóa thanh tịnh, ứng dụng không cùng; một loài như thế, gọi là Quang Âm thiên.
  • A Nan, ba loài tốt ấy, tất cả lo buồn không bức bách được; tuy không phải chân chính tu hành phép Tam ma địa của đạo Phật, nhưng trong tâm thanh tịnh, những lầm lạc thô động đã dẹp xuống, nên gọi là Nhị Thiền.
  • A Nan, những loài trời như thế, khi dùng hào quang viên mãn làm việc giáo hóa, do sự giáo hóa càng rõ lẽ nhiệm mầu, phát ra hạnh tinh tấn, thông với cái vui yên lặng; một loài như thế, gọi là Thiểu Tịnh thiên.
  • Cảnh thanh tịnh hiện tiền, dẫn phát không có bờ bến, thân tâm được khinh an, thành cái vui yên lặng; một loài như thế, gọi là Vô Lượng Tịnh thiên.
  • Thế giới và thân tâm, tất cả hoàn toàn thanh tịnh, đức thanh tịnh được thành tựu, cảnh giới thù thắng hiện tiền, dồn về vui yên lặng; một loài như thế, gọi là Biến Tịnh thiên.
  • A Nan, ba loài tốt đó, đầy đủ công hạnh đại tùy thuận, thân tâm yên lặng, được cái vui vô lượng; tuy không phải chân chính được phép Tam ma địa của đạo Phật, nhưng trong tâm yên ẩn, hoan hỷ được đầy đủ, nên gọi là Tam Thiền.
  • A Nan, lại nữa, những loài trời đó, thân tâm không bị bức bách, nguyên nhân của khổ đã hết, lại xét cái vui không phải thường trụ, lâu rồi cũng phải tiêu tan, nên cả hai tâm khổ và vui, đồng thời đều phóng xả; những tướng thô nặng đã diệt, thì phúc thanh tịnh sanh ra; một loài như thế, gọi là Phúc Sanh thiên.
  • Tâm phóng xả được viên mãn, sự nhận hiểu cao xa càng thanh tịnh; trong cái phúc không gì trở ngại đó, được sự tùy thuận nhiệm mầu cùng tột vị lai; một loài như vậy, gọi là Phúc Ái thiên.
  • A Nan, từ cõi trời đó, có hai đường rẽ:
    • Nếu dùng cái tâm sáng suốt thanh tịnh vô lượng trước kia, mà tu chứng an trụ nơi phúc đức viên mãn sáng suốt, thì một loài như thế, gọi là Quảng Quả thiên.
    • Nếu nơi cái tâm trước kia nhàm chán cả cái khổ và cái vui, lại nghiền ngẫm cái tâm phóng xả, tiếp tục không ngừng, đi đến cùng tột sự phóng xả, thân tâm đều diệt hết, ý nghĩ bặt mất, trải qua năm trăm kiếp; song, người ấy đã lấy cái sanh diệt làm nhân, thì không thể phát minh tánh không sanh diệt, nên nửa kiếp đầu thì diệt, nửa kiếp sau lại sanh; một loài như thế, gọi là Vô Tưởng thiên.
  • A Nan, bốn loài tốt ấy, tất cả những cảnh khổ vui trong thế gian không lay động được; tuy không phải là chỗ bất động chân thật của đạo vô vi; song, nơi cái tâm hữu sở đắc, công dụng đã thuần thục, nên gọi là Tứ Thiền.
  • A Nan, trong đó, lại có năm bậc Bất Hoàn thiên, các vị này đã diệt hết tập khí chín phẩm tư hoặc trong cõi dưới rồi, khổ vui không còn, bên dưới không có chỗ ở, nên an lập chỗ ở nơi chúng đồng phận của tâm phóng xả.
  • A Nan, khổ vui cả hai đều diệt, không còn tâm niệm ưa ghét; một loài như thế, gọi là Vô Phiền thiên.
  • Tự tại phóng xả, không còn năng xả, sở xả; một loài như thế, gọi là Vô Nhiệt thiên.
  • Khéo thấy thế giới mười phương thảy đều đứng lặng, không còn tất cả những cấu nhiễm trầm trọng của trần cảnh; một loài như thế, gọi là Thiện Kiến thiên.
  • Tri kiến thanh tịnh hiện tiền, sử dụng được không ngăn ngại; một loài như thế, gọi là Thiện Hiện thiên.
  • Quán sát rốt ráo các cực vi, cùng tột tánh của sắc pháp, vào tánh không bờ bến; một loài như thế, gọi là Sắc Cứu Kính thiên.
  • A Nan, những bậc Bất Hoàn thiên đó, chỉ riêng bốn vị Thiên vương Tứ Thiền được có kính nghe, nhưng không thể thấy biết; cũng như hiện nay, có các thánh đạo trường nơi rừng sâu đồng rộng thế gian, đều là những nơi trụ trì của các vị A la hán, nhưng những người thô thiển thế gian không thể thấy được.
  • A Nan, mười tám loài trời đó, tâm thường ở trong định, không dính dáng với trần cảnh, song chưa hết cái lụy của hình hài; từ đó trở về, gọi là Sắc Giới.

  • Lại nữa, A Nan, từ chỗ cao nhất của Sắc Giới, lại có hai đường rẽ:
    • Nếu nơi tâm phóng xả, phát minh được trí huệ, trí huệ sáng suốt viên thông, thì ra khỏi cõi trần, thành vị A la hán, vào Bồ tát thừa; một loài như thế, gọi là Hồi tâm Đại A la hán.
    • Nếu nơi tâm phóng xả, khi thành tựu được sự phóng xả rồi, lại cảm thấy cái thân làm ngăn ngại và tiêu cái ngăn ngại ấy vào hư không, thì một loài như thế, gọi là Không xứ.
  • Các chất ngại đã tiêu trừ rồi, nhưng không diệt được cái vô ngại, trong đó chỉ còn thức A lại gia và còn nguyên vẹn phần nửa vi tế của thức Mạt na; một loài như thế, gọi là Thức xứ.
  • Sắc và không đã hết, cái tâm biết là hết ấy cũng diệt trừ, mười phương vẳng lặng, không còn gì nữa; một loài như thế, gọi là Vô Sở Hữu xứ.
  • Thức tánh vốn không lay động, lại dùng cái diệt mà diệt đến cùng; trong chỗ không thể hết, phát minh nhận cho là hết, nên hình như còn, mà không phải còn, hình như hết, mà không phải hết; một loài như thế, gọi là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ.
  • Bọn nầy xét cùng cái không, nhưng không tột lý không; nếu từ thánh đạo cõi trời Bất Hoàn mà xét cùng, thì một loài như thế, gọi là Bất hồi tâm độn A la hán. Nếu từ cõi trời vô tưởng và ngoại đạo mà xét cùng cái không, không biết trở về, mê lầm không nghe Chánh pháp, thì sẽ vào trong luân hồi.
  • A Nan, trên các cõi trời đó, mỗi mỗi đều là những phàm phu hưởng sự báo đáp của nghiệp quả và khi sự báo đáp ấy hết rồi, thì trở vào trong luân hồi. Thiên vương các cõi kia, thường là Bồ tát, dùng Tam ma địa mà lần lượt tiến lên, hồi hướng về đường tu hành đạo Phật.
  • A Nan, những cõi trời tứ không đó, thân tâm diệt hết, định tánh hiện tiền, không có sắc pháp của nghiệp quả; từ đó đến cuối cùng, gọi là Vô Sắc Giới.
  • Bọn đó, đều do không rõ Diệu giác minh tâm, chứa nhóm cái vọng, mà giả dối phát sanh ra ba cõi, giả dối theo bảy loài trong đó, mà chìm đắm và cá thể thụ sanh cũng theo từng loài.

  • Lại nữa, A Nan, trong ba cõi ấy, còn có bốn giống A tu la.
  • Nếu từ loài quỷ, do sức bảo hộ Chánh pháp, được thần thông vào hư không, thì giống A tu la này, từ trứng sanh ra, thuộc về loài quỷ.
  • Nếu từ cõi trời, đức kém phải sa đọa, chỗ ở gần với mặt trờimặt trăng, thì giống A tu la đó, từ thai sanh ra, thuộc về loài người.
  • Có chúa A tu la, nắm giữ thế giới, sức mạnh đến chỗ không phải sợ ai, có thể tranh quyền với Phạm vương, Đế Thích và Tứ Thiên vương; giống A tu la này, nhân biến hóa mà có, thuộc về loài trời.
  • A Nan, riêng có một số A tu la thấp kém, sanh trong lòng biển lớn, lặn trong thủy huyệt, ban ngày đi chơi trên hư không, tối về ngủ dưới nước; giống A tu la này, nhân thấp khí sanh ra, thuộc về loài súc sanh.

  • A Nan, xét rõ bảy loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người và thần tiên, trời và A tu la như thế, đều là những tướng hữu vi tối tăm, giả dối tưởng tượng thụ sanh, giả dối tưởng tượng theo nghiệp; đối với tâm tánh Diệu viên minh, bản lai không năng tác, sở tác, thì đều như hoa đốm giữa hư không, vốn không dính dáng; chỉ một cái hư vọng, chứ không có cỗi gối manh mối gì.

  • A Nan, những chúng sanh đó, không nhận được tâm tánh bản lai, chịu cái luân hồi như thế trong vô lượng kiếp, mà không chứng được chân tánh thanh tịnh, đó đều do chúng thuận theo những sát, đạo, dâm, hoặc ngược lại ba cái đó, thì lại sanh ra không sát, không đạo, không dâm; có, thì gọi là loài quỷ, không, thì gọi là loài trời; có và không thay nhau, phát khởi ra tánh luân hồi.

  • Nếu khéo tu tập phát huy phép Tam ma địa, thì trong bản tánh thường diệu, thường tịch, cả hai cái có, cái không đều không và cái không có, không không cũng diệt, còn không có gì là bất sát, bất đạo, bất dâm, làm sao lại còn thuận theo được những việc sát, đạo, dâm.

  • A Nan, không đoạn được ba nghiệp, thì mỗi mỗi chúng sanh đều có phần riêng, nhân những cái riêng ấy, mà quả báo đồng phận chung của các cái riêng, không phải là không chỗ nhất định; đó là do vọng kiến của tự mình phát sanh ra; hư vọng phát sanh vốn không có nhân, không thể tìm xét nguồn gốc được.

  • Ông khuyên người tu hành, muốn được đạo Bồ đề, cốt yếu phải trừ tam hoặc; tam hoặc không hết, thì dầu được thần thông, cũng đều là những công dụng hữu vi của thế gian; tập khí mê lầm đã không diệt, thì lạc vào đường ma; tuy muốn trừ cái vọng, nhưng lại càng thêm giả dối; Như Lai bảo là rất đáng thương xót. Như thế, đều do vọng kiến tự mình tạo ra, không phải là lỗi của tánh Bồ đề.
  • Nói như thế ấy, tức là lời nói chân chính; nếu nói khác thế, tức là lời nói của Ma vương.

Khi bấy giờ, đức Như Lai gần chấm dứt thời thuyết pháp, ở nơi sư tử tọa, vin ghế thất bảo, xoay về Tử Kim sơn, trở lại dựa nơi ghế, bảo khắp đại chúng và ông A Nan rằng:

  • Bọn ông là hàng Duyên giác, Thanh văn Hữu học, ngày nay, đã hồi tâm hướng về vô thượng diệu giác đạo Đại Bồ đề, và tôi cũng đã chỉ dạy phép tu chân chính; nhưng các ông còn chưa biết những ma sự nhỏ nhiệm trong lúc tu chỉ, tu quán. 
  • Nếu cảnh ma hiện ra, ông không biết được, thì sẽ tu tâm không đúng và mắc vào tà kiến; hoặc bị ma Ngũ ấm của ông, hoặc bị Thiên ma, hoặc mắc quỷ thần, hoặc gặp lỵ mỵ, mà trong tâm không rõ, nhận giặc làm con. 
  • Lại nữa, có khi được một ít đã cho là đủ, như Vô Văn Tỳ kheo được Tứ Thiền, nói ma là chứng bậc thánh; đến khi quả báo chư thiên hết rồi, suy tướng hiện ra, thì phỉ báng quả A la hán còn phải thụ sanh, nên đọa vào ngục A Tỳ. 
  • Các ông hãy nghe cho kỹ, nay tôi vì ông mà phân biệt chín chắn.

Ông A Nan đứng dậy, với các hàng Hữu học trong hội, vui mừng đỉnh lễ, kính nghe Phật từ bi dạy bảo.

Phật bảo ông A Nan và cả đại chúng:

  • Các ông nên biết, mười hai loài chúng sanh trong thế giới hữu lậu, tâm thể giác viên bản giác diệu minh, cùng thập phương chư Phật, không hai không khác. Do vọng tưởng, các ông mê chân lý thành ra lỗi lầm. Si ái phát sanh, sanh mê cùng khắp, nên có hư không; hóa mãi cái mê không thôi, nên có thế giới sanh ra; các cõi nước số như vi trần ở mười phương, trừ cõi vô lậu, đều do vọng tưởng mê lầm kiến lập. 
  • Nên biết, hư không sanh trong tâm ông, cũng như chút mây điểm trên vùng trời, huống nữa là các thế giới ở trong hư không. Một người các ông phát minh chân lý, trở về bản tánh, thì hư không thập phương đó thảy đều tiêu mất, làm sao, các cõi nước hiện có trong hư không ấy, lại không rung động. 
  • Các ông tu thiền định, trau dồi phép Tam ma địa, tâm được thông suốt, ám hợp với các vị Bồ tát và các vị vô lậu Đại A la hán mười phương, thật sự vắng lặng, thì tất cả Ma vương, quỷ thần và loài trời, phàm phu, đều thấy cung điện mình không cớ gì đổ vỡ, đất liền rung động, các loài thủy lục bay nhảy, thảy đều kinh sợ. 
  • Phàm phu tối tăm, không rõ nên nghĩ lầm; còn bọn kia đều được năm thứ thần thông, trừ lậu tận thông, đương luyến tiếc cảnh trần lao, làm sao, lại để cho ông phá hoại chỗ ở? 
  • Vậy nên các loài quỷ thần, Thiên ma, vọng lượng, yêu tinh, trong lúc ông tu phép Tam ma địa, đều đến quấy phá.
  • Song các ma kia, tuy có giận dữ, nhưng bọn chúng ở trong trần lao, các ông ở trong diệu giác, thì cũng như gió thổi ánh sáng, như dao chém nước, hẳn không đụng chạm nhau được; ông như nước sôi, bọn kia như giá cứng, tạm gần hơi ấm, thì không bao lâu sẽ tiêu tan. 
  • Chúng nó luống ỷ thần lực, nhưng chỉ làm người khách; nếu chúng có thể phá rối được, là do người chủ Ngũ ấm trong tâm ông, nếu người chủ mê lầm, thì khách được dịp khuấy phá.
  • Đương lúc tu thiền, Giác ngộ không lầm, thì các ma sự kia không làm gì ông được. Khi năm ấm đã tiêu trừ, vào tánh sáng suốt, thì bọn tà ma kia là kẻ tối tăm, sáng phá được tối, đến gần tự phải tiêu mất, làm sao còn dám ở lại khuấy phá thiền định. Nếu không tỏ ngộ, bị Ngũ ấm làm cho mê lầm, thời chính ông là A Nan, lại phải làm con của ma và thành người ma. 
  • Như nàng Ma Đăng Già, sức còn hèn kém, chỉ dùng chú thuật, bắt ông phá luật nghi của Phật; trong tám muông hạnh chỉ phá một giới; nhưng vì tâm ông thanh tịnh, nên vẫn chưa bị chìm đắm. Bọn ma nầy, thì phá hoại toàn thân bảo giác của ông, như nhà quan tể thần, bỗng nhiên bị tước hết, tịch hết, linh đinh quanh lộn, không thể thương cứu.

  • A Nan nên biết, ông ngồi đạo trường, tiêu diệt các niệm, niệm đó nếu hết, thì tâm ly niệm sáng tỏ tất cả, động tĩnh không rời, nhớ quên như một. Đương khi an trụ nơi chỗ đó mà vào Tam ma địa, thì như người tỏ mắt ở chỗ rất tối tăm, tánh biết được diệu tịnh, nhưng tâm chưa phát ra trí sáng suốt; thế thì gọi là phạm vi của Sắc ấm.
  • Nếu con mắt sáng tỏ, mười phương rộng mở, không còn tối tăm nữa, thì gọi là hết Sắc ấm; người đó mới có thể vượt khỏi kiếp trược, xét lại nguyên do, thì cỗi gốc là vọng tưởng kiên cố.
  • A Nan, chính đương trong lúc chín xét tánh diệu minh, tứ đại không kết hợp, thì trong một thời gian ngắn, tâm có thể ra khỏi các ngăn ngại, ấy gọi là tinh minh trào ra tiền cảnh; đó chỉ do công dụng tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; nếu không nhận là chứng ngộ, thì cũng gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì liền mắc các tà kiến.
  • A Nan, lại đem cái tâm ấy chín xét tánh diệu minh, trong thân trở nên rỗng suốt, người đó bỗng nhiên, ở trong thân mình, nhặt ra các thứ giun sán mà cái thân vẫn y nguyên, không bị tổn thương; ấy gọi là tinh minh trào vào hình thể, chỉ do tu hành tinh tấn, tạm thấy được như vậy, không phải là chứng bậc thánh; nếu không nhận là chứng ngộ, thì cũng gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì liền mắc các tà kiến.
  • Lại dùng cái tâm ấy, chín xét trong ngoài, khi đó Ý thức tư tưởng, ngoài bản thân ra, còn bén vào các nơi khác, đắp đổi làm khách, làm chủ; bỗng dưng ở giữa hư không, nghe tiếng thuyết pháp hoặc nghe mười phương đồng diển bày nghĩa thâm mật; ấy gọi là tinh thần đắp đổi khi ly, khi hợp; thành tựu được thiện chủng, thì tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng ngộ, thì cũng gọi là cảnh giới tốt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà kiến.
  • Lại dùng cái tâm ấy, đứng lặng hiện ra sáng suốt; tâm quang phát minh, khắp cả mười phương thành sắc Diêm Phù Đàn, tất cả các loài hóa làm Như Lai; lúc bấy giờ, bỗng thấy Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi trên đài Thiên Quang, có ngàn Đức Phật vây quanh, trăm ức cõi nước cùng với hoa sen đồng một thời hiện ra; ấy gọi là Ý thức tiêm nhiễm sự linh ngộ, khi tâm quang phát minh, soi các thế giới, thì tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng ngộ, thì cũng gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà kiến.
  • Lại dùng cái tâm ấy, chín xét tánh diệu minh, quan sát không ngừng, đè nén, uốn dẹp, dứt trừ thái quá; lúc bấy giờ, bỗng nhiên mười phương hư không thành sắc thất bảo, hoặc sắc bách bảo, đồng thời cùng khắp, không ngăn ngại lẫn nhau; những sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, mỗi mỗi thuần hiện ra, ấy gọi là công sức đè nén quá phần, tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng ngộ, thì cũng gọi là cảnh giới tốt, nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà kiến.
  • Lại dùng cái tâm ấy, lặng suốt chín xét, trong sáng không tán loạn; bỗng ở giữa đêm, thấy các thứ vật trong nhà tối, chẳng khác gì ban ngày, mà những vật trong nhà tối đó cũng không diệt mất; ấy gọi là định tâm lặng đứng cái thấy, nên thấy suốt chỗ tối tăm, tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng ngộ, thì cũng gọi là cảnh giới tốt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà kiến.
  • Lại dùng cái tâm ấy, khắp vào tánh hư dung, bốn vóc bỗng đồng như cỏ, như cây, lửa đốt, dao cắt toàn không hay biết, khi thì ngọn lửa không thể đốt cháy, dù cắt thịt cũng như chẻ cây; ấy gọi là năm trần đều tiêu; khi bài xích tánh tứ đại, một mặt vào chỗ thuần nhất, tạm được như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng ngộ, thì cũng gọi là cảnh giới tốt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà kiến.
  • Lại dùng cái tâm ấy, thành tựu tánh thanh tịnh, công dụng tột bậc, bỗng thấy mười phương núi sông, đất liền đều thành cõi Phật, đủ bảy thứ báu chói sáng cùng khắp; lại thấy chư Phật Như Lai, như số cát sông Hằng, đầy khắp cõi hư không, lâu đài hoa lệ; dưới thấy địa ngục, trên xem thiên cung, không còn ngăn ngại; ấy gọi là tư tưởng ưa chán chứa nhóm ngày một sâu, lâu lắm hóa thành như thế, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng ngộ, thì cũng gọi là cảnh giới tốt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà kiến.
  • Lại dùng cái tâm ấy, nghiên cứu sâu xa, bỗng ở giữa đêm, thấy rõ chợ búa, làng mạc, bà con quyến thuộc phương xa, hoặc nghe lời nói; ấy gọi là nén ép cái tâm tột bậc nên nó bay ra, thấy được chỗ xa cách, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng ngộ, thì cũng gọi là cảnh giới tốt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà kiến.
  • Lại dùng cái tâm ấy, nghiên cứu cùng tột, thấy vị thiện tri thức, rồi hình thể biến đổi, không duyên cớ gì, trong giây lát có nhiều thứ thay đổi; ấy gọi là tà tâm; bị loài lỵ mỵ hoặc mắc Thiên ma vào trong tâm thức, không duyên cớ gì lại biết thuyết pháp, thông suốt các diệu nghĩa, không phải là chứng bậc thánh; không nhận là chứng ngộ thì ma sự tự tiêu diệt; nếu nghĩ là chứng bậc thánh, thì mắc các tà kiến.
  • A Nan, mười thứ cảnh hiện ra trong thiền định như thế, đều do Sắc ấm và tâm công dụng giao xen, nên hiện những việc đó; chúng sanh ngu mê, không biết suy xét tự lượng, gặp nhân duyên ấy, mê không tự biết, bảo là lên bậc thánh, thành tội đại vọng ngữ, phải đọa vào ngục Vô Gián. 
  • Sau khi Như Lai diệt độ rồi, các ông nên nương theo lời dạy, khai thị nghĩa nầy trong đời mạt pháp, không để Thiên ma được dịp khuấy phá; giữ gìn che chở cho chúng sanh thành đạo vô thượng.

  • A Nan, Thiện nam tử kia tu phép Tam ma địa, trong Xa ma tha, khi Sắc ấm hết rồi, thì thấy tâm chư Phật như cái bóng hiện ra trong gương sáng, hình như có được, nhưng chưa có thể dùng; cũng như người bị bóng mộc đè, tay chân y nguyên, thấy nghe không sai, nhưng tâm bị khách tà, không cử động được; thế thì gọi là phạm vi của Thọ ấm.
  • Nếu bóng mộc hết đè, thì cái tâm rời khỏi thân, trở lại xem được cái mặt, đi ở tự do, không còn ngăn ngại; thế gọi là hết Thọ ấm; người đó mới có thể vượt khỏi kiến trược, xét lại nguyên do, thì cỗi gốc là vọng tưởng hư minh.
  • A Nan, Thiện nam tử kia, đương ở trong đó, được rất sáng suốt, cái tâm phát sanh đè nén quá phận, bỗng ở nơi đó phát ra lòng bi vô cùng, như thế cho đến xem thấy muỗi mòng như là con đỏ, tâm sanh thương xót, nước mắt tự chảy ra; ấy gọi là công dụng đè nén quá mức; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh; Giác ngộ không mê nữa, lâu tự tiêu hết.
    • Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống ma sầu bi vào trong tim gan, thấy người thì đau xót, kêu khóc vô hạn; sai mất chính thụ, sẽ bị chìm đắm.
  • A Nan, lại các Thiện nam tử trong định kia, thấy Sắc ấm tiêu rồi, Thọ ấm tỏ rõ, cảnh tốt hiện ra trước, cảm khích quá phần, bỗng ở trong đó, sanh lòng dũng mãnh vô hạn; cái tâm mạnh mẽ, chí bằng chư Phật, bảo ba tăng kỳ, một niệm có thể vượt khỏi. Ấy gọi là công dụng lấn lướt quá mức; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh; Giác ngộ không mê nữa, thì lâu tự tiêu hết.
    • Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống ma ngông cuồng vào trong tim gan, thấy người thì khoe, ngã mạn không ai sánh được; tâm người ấy, cho đến, trên không thấy Phật, dưới không thấy người; sai mất chính thụ, sẽ bị chìm đắm.
  • Lại các Thiện nam tử trong định kia, thấy Sắc ấm tiêu rồi, Thọ ấm tỏ rõ; trước không có chỗ chứng mới, lui về thì mất chỗ cũ, trí lực suy kém, vào trung hủy địa, hẳn không thấy gì; trong tâm bỗng sanh lòng rất khô khát; trong tất cả thời thầm nhớ không thôi, rồi cho như thế là tướng tinh tấn. Ấy gọi là tu hành không trí huệ, tự sanh lầm lạc; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh.
    • Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống ma nhớ vào trong tim gan, ngày đêm như nắm cái tâm treo vào một nơi; sai mất chính thụ, sẽ bị chìm đắm.
  • Lại các Thiện nam tử trong định kia, thấy Sắc ấm tiêu rồi, Thọ ấm tỏ rõ, sức huệ quá định, bị cái lỗi quá mạnh mẽ sắc bén; đem cái thắng tánh ôm vào trong tâm, tự ngờ mình là Phật Lô Xá Na, được một ít đã cho là đủ. Ấy gọi là chỗ dụng tâm quên mất suy xét, nên đắm vào nơi tri kiến, ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh.
    • Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống ma hèn kém dễ biết đủ vào trong tim gan, thấy người thì tự xưng đã được vô thượng đệ nhất nghĩa đế, sai mất chính thụ, sẽ bị chìm đắm. 
  • Lại các Thiện nam tử trong định kia, thấy Sắc ấm tiêu rồi, Thọ ấm tỏ rõ, chỗ chứng mới chưa được, còn tâm cũ đã mất, soi cả hai bên, tự cho là nguy hiểm; trong tâm bổng nhiên sanh ra lòng lo vô tận, như ngồi giường sắt, như uống thuốc độc, tâm không muốn sống, thường cầu người khác hại thân mệnh mình để sớm được giải thoát. Ấy gọi là tu hành sai mất phương tiện; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh.
    • Nếu nhận chứng bậc thánh, thì có một phần giống ma thường lo rầu vào trong tim gan, tay cầm dao gươm tự cắt thịt mình, thích được bỏ mạng, hoặc thường lo rầu, chạy vào trong rừng núi, không thích thấy người ta, sai mất chính thụ, sẽ bị chìm đắm.
  • Lại các Thiện nam tử trong định kia, thấy Sắc ấm tiêu rồi, Thọ ấm tỏ rõ, trong chỗ thanh tịnh, tâm được yên ổn, bỗng có cái mừng vô hạn sanh ra, trong tâm mừng rỡ, không thể tự ngăn. Ấy gọi là lòng khinh an, không có trí huệ tự ngăn mình; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh.
    • Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có một phần giống ma thích vui mừng vào trong tim gan, thấy người thì cười, ở bên đường cái, tự ca tự múa, tự bảo đã được vô ngại giải thoát; sai mất chính thụ, sẽ bị chìm đắm.
  • Lại các Thiện nam tử trong định kia, thấy Sắc ấm tiêu rồi, Thọ ấm tỏ rõ, tự bảo là đã đủ rồi; không căn cứ gì, bỗng có lòng đại ngã mạn phát ra, như thế cho đến lòng mạn, quá mạn và mạn quá mạn, hoặc lòng tăng thượng mạn, hoặc lòng ty liệt mạn, một thời đều phát ra; trong tâm còn khinh thập phương Như Lai, huống nữa là các bậc dưới như Thanh văn, Duyên giác. Ấy gọi là thắng giải quá cao, không trí huệ để tự cứu; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh.
    • Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có một phần giống ma đại ngã mạn vào trong tim gan, không lễ chùa tháp, phá hỏng kinh tượng, bảo đàn việt rằng: Đó là đồ kim đồng hoặc đồ thổ mộc, kinh là lá cây, hoặc là giấy lụa; xác thịt chân thường, không tự cung kính, lại sùng bái đồ thổ mộc, thật là trái ngược.
    • Những người quá tin, theo lời dạy phá phách, chôn bỏ trong đất, do gây nghi ngờ lầm lạc cho chúng sanh, phải đọa vào ngục Vô Gián; sai mất chính thụ, sẽ bị chìm đắm.
  • Lại các Thiện nam tử trong định kia, thấy Sắc ấm tiêu rồi, Thọ ấm tỏ rõ; trong chỗ tinh minh, viên ngộ được tinh lý, được phép đại tùy thuận; tâm bỗng sanh ra lòng khinh an không lường, bảo mình đã thành bậc thánh, được đại tự tại. Ấy gọi là nhân trí huệ được các sự khinh thanh; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh.
    • Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có một phần giống ma thích khinh thanh vào trong tim gan, tự bảo đã đầy đủ, không cầu tiến lên nữa; bọn đó phần nhiều làm như Vô Văn Tỳ kheo, gây nghi ngờ lầm lạc cho chúng sanh, rồi đọa vào ngục A Tỳ; sai mất chính thụ, sẽ bị chìm đắm.
  • Lại các Thiện nam tử trong định kia, thấy Sắc ấm tiêu rồi, Thọ ấm tỏ rõ; trong chỗ tỏ ngộ, được tánh hư minh; lúc ấy bỗng xoay lại hướng theo tánh đoạn diệt, bác không nhân quả, một mực vào rỗng không; tâm rỗng không hiện tiền, cho đến phát sanh nhận định là đoạn diệt mãi mãi. Ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh.
    • Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống ma rỗng không vào trong tim gan, chê bai người giữ giới là Tiểu thừa, chứ Bồ tát đã ngộ được tánh không, thì có gì là trì với phạm.
    • Người đó thường ở nhà đàn việt thiện tín, uống rược ăn thịt, làm nhiều điều dâm uế; nhân có sức ma, nhiếp phục người ta không sanh lòng nghi báng; tâm ma thâm nhập lâu ngày, hoặc ăn đại tiện tiểu tiện, cũng như ăn thịt uống rượu, vì tất cả đều không; phá luật nghi của Phật, làm cho người khác lầm lạc mắc tội; sai mất chính thụ, sẽ bị chìm đắm.
  • Lại các Thiện nam tử trong định kia, thấy Sắc ấm tiêu rồi, Thọ ấm tỏ rõ, nghiền ngẫm cái hư minh, ghi sâu vào tim cốt, trong tâm bỗng có lòng yêu vô hạn sanh ra; yêu quá phát điên, bèn làm việc tham dục. Ấy gọi là cảnh định an thuận vào tâm, không trí huệ tự giữ mình, lầm vào ngũ dục; ngộ thì không có lỗi, không phải là chứng bậc thánh.
    • Nếu nhận là chứng bậc thánh, thì có giống ma ngũ dục vào trong tim gan, một mặt bảo sự dâm dục là đạo Bồ đề, dạy các bạch y bình đẳng làm việc dâm dục, những người hành dâm gọi là trì pháp tử; do sức tà ma nhiếp phục kẻ phàm phu trong đời mạt pháp, số đến cả trăm, như thế cho đến một trăm, hai trăm, hoặc năm sáu trăm, nhiều đến ngàn vạn; khi ma sanh chán, rời bỏ thân thể, đã không còn uy đức, thì sa vào lưới pháp luật; do gây nghi ngờ lầm lạc cho chúng sanh, phải đọa vào ngục Vô Gián; sai mất chính thụ, sẽ bị chìm đắm.
  • A Nan, mười thứ cảnh hiện ra trong thiền định như thế, đều do Thọ ấm và tâm công dụng giao xen, nên hiện như vậy; chúng sanh ngu mê không biết suy xét tự lượng, gặp nhân duyên ấy, mê không tự biết, bảo là lên bậc thánh, thành tội đại vọng ngữ, phải sa vào ngục Vô Gián. 
  • Sau khi tôi diệt độ rồi, các ông nên đem lời nói nầy của Như Lai, truyền dạy trong đời mạt pháp, khiến cho chúng sanh đều tỏ ngộ nghĩa đó, không để Thiên ma được dịp khuấy phá; giữ gìn che chở cho chúng sanh thành đạo vô thượng.

  • A Nan, Thiện nam tử kia, tu pháp Tam ma địa, khi Thọ ấm hết rồi, tuy chưa hết mê lầm, nhưng tâm đã rời khỏi hình hài như chim ra khỏi lồng, điều ấy đã thành tựu được rồi. Từ phàm thân đó, tiến lên trải qua sáu mươi thánh vị Bồ tát, được ý sanh thân, tùy ý đi, ở, không còn ngăn ngại.
  • Ví như có người ngủ say nói mơ, người ấy tuy không hay biết gì, nhưng lời nói đã có âm vận thứ tự, khiến người không ngủ đều hiểu biết được; ấy thì gọi là phạm vi của Tưởng ấm.
  • Nếu biết động niệm, tư tưởng hư vọng tiêu trừ, thì nơi tâm giác minh, như bỏ hết bụi nhơ, một dòng sanh tử, đầu đuôi soi khắp, gọi là hết Tưởng ấm; người ấy mới có thể vượt khỏi phiền não trược, xét lại nguyên do, cỗi gốc là vọng tưởng dung thông.
  • A Nan, Thiện nam tử kia, Thọ ấm đã hư diệu, không còn mắc các tà lự, tánh viên định phát minh, trong Tam ma địa, tâm lại ưa được viên minh, thúc giục tư tưởng, tham cầu những thiện xảo. Khi bấy giờ, Thiên ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp; người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được Vô thượng Niết bàn; đến chỗ Thiện nam tử cầu thiện xảo kia, trải pháp tọa thuyết pháp.
    • Thân hình người đó giây lát, hoặc làm Tỳ kheo cho người kia thấy, hoặc làm Đế Thích, hoặc làm phụ nữ, hoặc làm Tỳ kheo ni, hoặc nằm trong nhà tối, thân có hào quang chói sáng. Người tu hành ngu mê, lầm là Bồ tát, tin lời dạy bảo, lay chuyển cái tâm, phá luật nghi của Phật, lén làm việc tham dục.
    • Miệng ma ưa nói những sự may rủi biến đổi, hoặc nói Như Lai ra đời ở chỗ Mỗ, hoặc nói có kiếp hỏa, hoặc nói có đao binh, khủng bố người ta, khiến cho gia tư không cớ gì phải hao mất. Ấy gọi là giống quái quỷ, tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành.
    • Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên Giác ngộ trước, thì không vào luân hồi; nếu mê lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô Gián.
  • A Nan, lại Thiện nam tử kia, Thọ ấm đã hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh; trong Tam ma địa, tâm lại ưa đi chơi, cho tư tưởng bay đi, tham cầu trải qua nhiều nơi. Khi bấy giờ, Thiên ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp; người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được Vô thượng Niết bàn, đến chỗ Thiện nam tử muốn đi chơi kia, trải pháp tọa thuyết pháp.
    • Hình người đó không thay đổi, song những người nghe pháp, bỗng tự thấy mình ngồi trên hoa sen báu, thân thể hóa thành thân vàng chói sáng; cả một thính chúng, mỗi người đều như thế, được cái chưa từng có. Người tu hành ngu mê, lầm là Bồ tát, tâm hóa dâm dật, phá luật nghi của Phật, lén làm việc tham dục.
    • Miệng ma ưa nói các Đức Phật ứng hóa ra đời, người Mỗ, chỗ Mỗ tức là hóa thân của Đức Phật Mỗ; người Mỗ sẽ đến, tức là vị Bồ tát Mỗ, đến giáo hóa thế gian. Người tu hành thấy thế, tâm sanh hâm mộ, tà trí thầm thầm nổi lên, chủng trí tiêu diệt. Ấy gọi là giống bạt quỷ, tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành.
    • Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên Giác ngộ trước, thì không vào luân hồi; nếu mê lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô Gián.
  • Lại Thiện nam tử kia, Thọ ấm đã hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh; trong Tam ma địa, tâm lại ưa thầm hợp, lặng đứng cái tư tưởng, tham cầu được khế hợp. Khi bấy giờ, Thiên ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp; người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được Vô thượng Niết bàn, đến chỗ người Thiện nam tử cầu khế hợp kia, trải pháp tọa thuyết pháp.
    • Hình người đó và những người nghe phápbề ngoài không có thay đổi, nhưng lại khiến cho các thính giả, trước khi nghe pháp, tâm đã tự khai ngộ, niệm niệm dời đổi, hoặc được túc mạng thông, hoặc có tha tâm thông, hoặc thấy địa ngục, hoặc biết các việc hay, dở trong thế gian, hoặc miệng nói bài kệ, hoặc tự tụng kinh được, mỗi mỗi đều vui vẻ, được cái chưa từng có. Người tu hành ngu mê, lầm là Bồ tát, tâm sanh ra dính dáng yêu đương, phá luật nghi của Phật, lén làm việc tham dục.
    • Miệng ma thích nói Phật có lớn, nhỏ, Đức Phật Mỗ là Đức Phật trước, Đức Phật Mỗ là Đức Phật sau, trong đó cũng có Phật thật, Phật giả, Phật trai, Phật gái; Bồ tát cũng thế. Người tu hành thấy như vậy, bỏ sạch bản tâm, dễ vào các tà ngộ. Ấy gọi là giống mỵ quỷ, tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành.
    • Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên Giác ngộ trước, thì không vào luân hồi, nếu mê lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô Gián.
  • Lại Thiện nam tử kia, Thọ ấm đã hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh; trong Tam ma địa, tâm lại ưa biết cỗi gốc; nơi sự vật chuyển hóa, muốn xét biết cùng tột chung thủy, thúc cái tâm sáng suốt thêm, tham cầu nhận biết chia chẻ. Khi bấy giờ, Thiên ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được Vô thượng Niết bàn, đến chỗ Thiện nam tử cầu biết cỗi gốc kia, trải pháp tọa thuyết pháp.
    • Người đó có uy thần, làm cho những người cầu pháp đều kính phục; khiến cho thính chúng dưới pháp tọa, khi chưa nghe pháp, tự nhiên tâm đã phục rồi; tất cả bọn ấy đều cho rằng Niết bàn, Bồ đề, Pháp thân của Phật, tức là cái xác thịt hiện tiền; cha con sanh nhau, đời này đến đời khác, tức là Pháp thân thường trụ không mất; đều chỉ hiện tại, tức là cõi Phật, không có cõi tịnh cư và thân kim sắc nào khác. Người tu hành tin lĩnh những điều đó, bỏ mất bản tâm, đem thân mạng mà quy y, được cái chưa từng có; người đó ngu mê, lầm là Bồ tát, suy xét cái tâm như thế, phá luật nghi của Phật, lén làm việc tham dục.
    • Miệng ma ưa nói, mắt, tai, mũi, lưỡi đều là Tịnh Độ, hai căn nam nữ tức là chỗ thật Bồ đề Niết bàn; bọn không biết kia, đều tin lời nhơ nhớp đó. Ấy gọi là giống cổ độc quỷ và giống áp thắng quỷ, tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành.
    • Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên Giác ngộ trước, thì không vào luân hồi, nếu mê lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô Gián.
  • Lại Thiện nam tử kia, Thọ ấm đã hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh; trong Tam ma địa, tâm lại ưa biết các việc trước sau, chín xét cùng khắp, tham cầu được thầm cảm. Khi bấy giờ, Thiên ma chờ được dịp ấy; cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được Vô thượng Niết bàn, đến chỗ Thiện nam tử cầu cảm ứng kia, trải pháp tọa thuyết pháp.
    • Có thể khiến cho thính chúng tạm thấy cái thân như đã trăm ngàn tuổi, tâm sanh ra ái nhiễm, không thể rời bỏ, đem thân làm nô bộc, cúng dường tứ sự, không biết mệt mõi; lại khiến cho mỗi người dưới pháp tọa, tâm biết đó là vị Tiên sư, là vị Thiện tri thức, riêng sanh lòng pháp ái, dính như keo sơn, được cái chưa từng có. Người tu hành ngu mê, lầm là Bồ tát, gần gũi tâm ma, phá luật nghi của Phật, lén làm việc tham dục.
    • Miệng ma ưa nói, ta ở kiếp trướctrong đời Mỗ, trước độ người Mỗ, lúc đó là thê thiếp, anh em của ta, nên nay lại đến độ cho nhau; ta sẽ cùng các người theo nhau về cảnh giới Mỗ, cúng dường Đức Phật Mỗ; hoặc nói có cõi trời Đại Quang Minh riêng biệt, Phật ở trong ấy, và là chỗ nghỉ ngơi của tất cả các đức Như Lai. Bọn không biết kia, đều tin những lời phỉnh gạt đó, bỏ mất bản tâm. Ấy gọi là giống lệ quỷ, tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành.
    • Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên Giác ngộ trước, thì không vào luân hồi, nếu mê lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô Gián.
  • Lại Thiện nam tử kia, Thọ ấm đã hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh; trong Tam ma địa, tâm lại ưa đi sâu vào, khắc khổ siêng năng, thích ở chỗ thầm vắng, tham cầu sự yên lặng. Khi bấy giờ, Thiên ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được Vô thượng Niết bàn, đến chỗ Thiện nam tử cầu thầm lặng kia, trải pháp tọa thuyết pháp.
    • Khiến cho thính chúng, mỗi người đều biết nghiệp cũ của mình; hoặc ở nơi đó, bảo một người rằng: Ngươi nay chưa chết đã làm súc sanh, rồi bảo một người đạp cái đuôi đằng sau, liền khiến người đó đứng dậy không được; cả trong một chúng đều hết lòng kính phục, có người móng tâm lên, thì nó đã biết ý; ngoài luật nghi của Phật ra, nó lại càng thêm khắc khổ, chê bai Tỳ kheo, mắng nhiếc đồ chúng, phơi lộ việc người ta, không tránh sự cơ hiềm.
    • Miệng ma ưa nói những họa phúc chưa đến và khi đã đến rồi, thì mảy may không sai. Ấy gọi là giống đại lực quỷ, tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành.
    • Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ tử cùng thầy đều sa vào lưới pháp luật. Ông nên Giác ngộ trước, thì không vào luân hồi, nếu mê lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô Gián.
  • Lại Thiện nam tử kia, Thọ ấm đã hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh; trong Tam ma địa, tâm lại ưa hiểu biết, siêng năng xét tìm, tham cầu biết túc mạng. Khi bấy giờ, Thiên ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được Vô thượng Niết bàn, đến chỗ Thiện nam tử cầu hiểu biết kia, trải pháp tọa thuyết pháp.
    • Người tu hành bỗng nhiên, nơi chỗ thuyết pháp, được hạt châu báu lớn; hoặc khi ma hóa làm súc sanh, miệng ngậm hạt châu với những vật kỳ lạ như đồ trân bảo, giản sách, phù độc, đến trao trước cho người tu hành, rồi sau cọ gá vào thân thể; hoặc khi ma bảo người nghe pháp, có hạt châu minh nguyệt chôn ở dưới đất, đương soi sáng chỗ đó, làm cho các thính giả được cái chưa từng có.
    • Ma thường ăn cây thuốc, chứ không ăn cơm, hoặc khi mỗi ngày chỉ ăn một bữa hạt vừng hoặc hạt mạch, do sức ma chấp trì, thân hình vẫn béo tốt. 
    • Ma lại chê bai Tỳ kheo, mắng nhiếc đồ chúng, không tránh sự cơ hiềm; trong miệng ưa nói, kho báu phương khác và chỗ ẩn cư của các bậc thánh hiền thập phương; những người đi theo sau, thường thấy có người kỳ lạ.
    • Ấy gọi là giống quỷ thần núi rừng, thổ địa, thành hoàng, sông núi, tuổi già thành ma; hoặc khi kêu gọi làm điều dâm dục, phá giới luật Phật, cùng với những kẻ thừa sự, lén làm việc ngũ dục; hoặc khi lại tinh tấn, ăn toàn cỏ cây; việc làm không nhất định, cốt khuấy rối người tu hành.
    • Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ tử cùng thầy phần nhiều sa vào lưới pháp luật. Ông nên Giác ngộ trước, thì không vào luân hồi; nếu mê lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô Gián.
  • Lại Thiện nam tử kia, Thọ ấm đã hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh; trong Tam ma địa, tâm lại ưa các thứ biến hóa thần thông,nghiên cứu nguồn gốc biến hóa, tham cầu có thần lực. Khi bấy giờ, Thiên ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật không hay biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được Vô thượng Niết bàn, đến chỗ Thiện nam tử cầu thần thông kia, trải pháp tọa thuyết pháp.
    • Người đó, hoặc tay cầm ngọn lửa, nắm chia ngọn lửa trên đầu tứ chúng nghe pháp; ngọn lửa trên đỉnh những người nghe pháp đều dài vài thước, mà cũng không đốt cháy, cũng không có nóng.
    • Người đó, hoặc đi trên nước như đi trên đất bằng, hoặc ở giữa hư không, ngồi yên không lay động; hoặc vào trong bình, hoặc ở trong đãy, hoặc vượt cửa sổ, hoặc thấu qua tường, không chút ngăn ngại; chỉ đối với đao binh thì không được tự tại.
    • Người đó tự bảo là Phật, thân mặc bạch y, chịu Tỳ kheo lễ bái, chê bai Thiền luật, mắng nhiếc đồ chúng, phơi lộ việc người, không tránh sự cơ hiềm; trong miệng thường nói thần thông tự tại; hoặc lại cho người thấy cõi Phật một bên, đó là do sức quỷ mê hoặc, không có gì là chân thật.
    • Người đó khen ngợi việc hành dâm, không từ bỏ những việc làm thô tục, bảo những sự ôm ấp lẫn nhau là truyền pháp.
    • Ấy gọi là những giống sơn tinh, hải tinh, phong tinh, hà tinh, thổ tinh, và những loài tinh mỵ của tất cả cỏ cây đã sống nhiều kiếp, có sức lớn trong trời đất, hoặc là long mỵ, hoặc là tiên chết rồi, sống lại làm mỵ; hoặc quả báo đạo tiên đã hết, kể năm thì phải chết, nhưng hình hài không hư nát, nên loài quái khác gá vào. 
    • Bọn ấy tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành.
    • Khi khuấy chán rồi, bỏ thân người không gá nữa, thì đệ tử cùng thầy phần nhiều sa vào lưới pháp luật. Ông nên Giác ngộ trước, thì không vào luân hồi, nếu mê lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô Gián.
  • Lại Thiện nam tử kia, Thọ ấm đã hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh; trong Tam ma địa, tâm lại ưa vào chỗ diệt hết, nghiên cứu tánh biến hóa, tham cầu cái rỗng không sâu nhiệm. Khi bấy giờ, Thiên ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó thật không biết bị ma gá vào, cũng tự bảo đã được Vô thượng Niết bàn, đến chỗ Thiện nam tử cầu rỗng không kia, trải pháp tọa thuyết pháp.
    • Ở trong đại chúng, hình của người đó bỗng hóa thành không, cả chúng không thấy gì, rồi lại từ hư không bỗng chốc hiện ra, khi còn, khi mất, được tự tại; hoặc hiện cái thân rỗng suốt như ngọc lưu ly, hoặc duỗi tay chân xuống, phát ra mùi thơm chiên đàn, hoặc đại tiểu tiện như đường phèn cứng chắc.
    • Người đó chê bai phá hoại giới luật, khinh rẻ những người xuất gia; trong miệng thường nói, không nhân quả, chết rồi là diệt hẳn, không có thân sau; lại các phàm, thánh, tuy được phép không tịch, vẫn lén làm việc tham dục và người thụ lĩnh cái dâm dục đó, cũng được tâm rỗng không, bác không nhân quả.
    • Ấy gọi là những giống tinh khí nhật nguyệt bạc thực, kim, ngọc, chi thảo, lân, phụng, quy, hạc, trải qua ngàn vạn năm không chết, làm tinh linh sanh ra trong các quốc độ, tuổi già thành ma, khuấy rối người tu hành.
    • Khi ma khuấy chán rồi, bỏ thân người, không gá nữa, thì đệ tử cùng thầy phần nhiều sa vào lưới pháp luật. Ông nên Giác ngộ trước, thì không vào luân hồi, nếu mê lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô Gián.
  • Lại Thiện nam tử kia, Thọ ấm đã hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh; trong Tam ma địa, tâm lại ưa sống lâu, gian khổ quan sát tinh vi, tham cầu được nhiều tuổi; bỏ cái sống phân đoạn, lại trông mong cái tướng vi tế của biến dịch sanh tử được thường trụ. Khi bấy giờ, Thiên ma chờ được dịp ấy, cho tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người đó không hề hay biết bị ma gá vào, cũng tự bảo được Vô thượng Niết bàn, đến chỗ Thiện nam tử cầu sống lâu kia, trải pháp tọa thuyết pháp.
    • Người đó ưa nói, đi về phương khác, không hề chậm trễ, hoặc trải qua muôn dặm, giây lát đã trở lại và đều lấy được những vật nơi đó; hoặc ở một chỗ, hay trong một nhà, chỉ trong vài bước, bảo người ta đi từ vách Đông qua đến vách Tây, nhưng người ta đi mau cả năm không đến; nhân đó, người tu hành tin tưởng, nghi là Phật hiện tiền.
    • Miệng ma thường nói, thập phương chúng sanh đều là con ta, ta sanh ra chư Phật, ta sanh ra thế giới, ta là Phật đầu tiên, tự nhiên ra đời, không nhân tu hành mà đắc đạo. 
    • Ấy gọi là ma trụ thế Tự Tại thiên, nó khiến bọn quyến thuộc chưa phát tâm như bọn Giá văn trà hay là Tỳ Xá đồng tử cõi Tứ Thiên vương, thích cái hư minh, đến ăn tinh khí người tu hành. Hoặc không nhân ông thầy, chính người tu hành tự mình xem thấy, bọn đó tự xưng là thần Chấp Kim Cang đến cho trường thọ. 
    • Bọn đó hiện thân gái đẹp, thịnh hành việc dâm dục, làm cho chưa đầy một năm, gan não người tu hành đã khô kiệt, miệng nói lẩm bẩm một mình, nghe như yêu mỵ. Người ngoài chưa rõ nguyên do, nên phần nhiều người bị như thế, phải sa vào lưới pháp luật và chưa kịp hành hình đã chết khô trước.
    • Thế là bọn ma khuấy phá người tu hành kia, đến phải ốm chết. Ông nên Giác ngộ trước, thì không vào luân hồi, nếu mê lầm không biết, thì đọa vào ngục Vô Gián.
  • A Nan, nên biết mười thứ ma ấy, trong đời mạt pháp, hoặc xuất gia tu hành ở trong đạo Phật, hoặc gá thân người, hoặc tự hiện hình, đều tự bảo đã thành Chánh Biến Tri giác, khen ngợi dâm dục, phá luật nghi của Phật; ma thầy trước cùng đệ tử ma, dâm dục truyền nhau; tà ma như thế, mê hoặc tim gan, ít thì chín đời, nhiều đến trăm đời, khiến cho người tu hành chân chính, đều làm quyến thuộc của ma, sau khi mạng chung, chắc phải làm dân ma, bỏ mất Chánh Biến Tri, đọa vào ngục Vô Gián. 
  • Nay ông chưa nên vào Niết bàn trước, dầu được quả Vô học, cũng phát nguyện vào trong đời mạt pháp kia, phát lòng đại từ bi, cứu độ cho chúng sanh có lòng thâm tín chân chính, khiến cho khỏi mắc tà ma, được Chánh tri kiến; nay tôi đã độ ông ra khỏi sống chết, ông vâng lời Phật dạy, thì gọi là báo ơn Phật.
  • A Nan, mười thứ cảnh hiện ra trong thiền định như thế, đều do Tưởng ấm và tâm công dụng giao xen, nên hiện ra những cảnh ấy; chúng sanh ngu mê, không biết suy xét tự lượng, gặp nhân duyên đó, mê không tự biết, tự bảo là lên bậc thánh, thành tội đại vọng ngữ, phải đọa vào ngục Vô Gián. 
  • Bọn ông cần phải, sau khi tôi diệt độ rồi, đem những lời dạy nầy của Như Lai truyền bày cho đời mạt pháp, khiến cho khắp các chúng sanh tỏ ngộ nghĩa đó, không để Thiên ma được dịp khuấy rối; giữ gìn che chở cho chúng sanh thành đạo vô thượng.

NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT