Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 3: Vạn Pháp Là Biểu Hiện Của Như Lai Tạng
大佛頂首楞嚴經
- Published: 23 Nov 2021 21:14:24
- Modified: 31 Jul 2022 14:21:48
- Categories: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Tags: Cư sĩ Hạnh Cơ, Tâm Minh Lê Đình Thám
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh – Tập 19 – Số 945 (Mật Giáo Bộ)
Surangama Sutra – 大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經
Đại Phật Đỉnh
Như Lai Mật Nhân
Tu Chứng Liễu Nghĩa
Chư Bồ Tát Vạn Hạnh
Thủ Lăng Nghiêm Kinh
Ngài Bồ tát Long Thụ (thế kỷ II) thỉnh từ cung rồng Ta Kiệt La
Nước Trung Hoa – triều Đại Đường (618~907) – đời Trung Tông (705~710)
Ngài Sa môn Bát Lạt Mật Đế (người Thiên Trúc) dịch chép ra Phạn văn, sau đó truyền kinh sang Trung Hoa và tổng dịch năm 705
Sa môn Di Già Thích Ca (?~?) Hán dịch từ Phạn văn
Sa môn Hoài Địch (?~?) chứng minh bản dịch
Cư sĩ Phòng Dung (tể tướng đời Võ Chu) bình chương, bút thọ, bảo trợ bản dịch
Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (1897~1969) Việt dịch từ Hán văn năm 1961
daithua.com biên tập năm 2021
Quyển 3:
Vạn Pháp Là Biểu Hiện Của Như Lai Tạng
- Lại nữa, A Nan, vì sao bản tánh của Lục nhập, vốn là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng?
- A Nan, tức nơi tròng con mắt kia, ngó chăm phát ra mỏi mệt, thì cả cái thấy và cái mỏi mệt đó đều là thể tánh Bồ đề chăm chú phát ra tướng mỏi mệt.
- Nhân nơi hai thứ vọng trần sáng và tối, phát ra cái thấy bên trong, thu nạp các trần tướng ấy gọi là tánh thấy; cái thấy đó rời hai trần sáng và tối kia, rốt ráo không có tự thể.
- Thật vậy, A Nan, ông nên biết cái thấy đó không phải từ nơi sáng, nơi tối mà đến, không phải từ nơi con mắt mà ra, cũng không phải do cái hư không mà sanh. Vì cớ sao?
- Nếu từ cái sáng mà đến, thì khi tối đã theo cái sáng mà diệt, lẽ ra không thấy được tối.
- Nếu từ cái tối mà đến, thì khi sáng phải theo cái tối mà diệt, lẽ ra không thấy được sáng.
- Nếu do con mắt mà sanh, hẳn không có sáng, có tối, thì cái thấy như vậy vốn không tự tánh.
- Nếu do hư không mà ra, thì ngó trước thấy các trần tượng, xoay về phải thấy con mắt; lại hư không tự thấy, nào có dính gì chỗ thu nạp của ông.
- Vậy nên biết rằng Nhãn nhập là luống dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, ví như người lấy hai ngón tay bịt chặt hai lỗ tai, do lỗ tai mỏi mệt, trong đầu hóa ra có tiếng; cả cái nghe cùng cái mỏi mệt đồng là thể tánh Bồ đề chăm chú phát ra tướng mỏi mệt.
- Nhân nơi hai thứ vọng trần động và tĩnh, phát ra cái nghe ở trong, thu nạp cái trần tượng đó, gọi là tánh nghe. Tánh nghe ấy rời hai trần động, tĩnh kia, rốt ráo không có tự thể.
- Thật vậy, A Nan, ông nên biết, cái nghe đó không phải từ nơi động, nơi tĩnh mà đến, không phải từ nơi lỗ tai mà ra, không phải do hư không mà sanh. Vì cớ sao?
- Nếu cái nghe kia từ nơi tĩnh mà đến, thì khi động phải theo cái tĩnh mà diệt, lẽ ra không nghe được động.
- Nếu từ nơi động mà đến, thì khi tĩnh sẽ theo cái động mà diệt, lẽ ra không biết được tĩnh.
- Nếu do lỗ tai mà sanh, hẳn không có động, có tĩnh, thì cái nghe như vậy vốn không tự tánh.
- Nếu do hư không mà ra, thì đã có tánh nghe, chắc không phải là hư không nữa; lại hư không tự nghe, nào có dính gì chỗ thu nạp của ông.
- Vậy nên biết rằng Nhĩ nhập là luống dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, ví như có người bịt gấp hai lỗ mũi, bịt lâu thành ra mỏi mệt thì ở, trong lỗ mũi, nghe có cảm xúc lạnh; nhân những cảm xúc như thế, mà phân biệt được là thông, là ngăn bịt, là rỗng, là đặc, cho đến các mùi thơm, thối; cả cái ngửi cùng cái mỏi mệt đồng là thể tánh Bồ đề chăm chú phát ra tướng mỏi mệt.
- Nhân nơi hai thứ vọng trần thông và bịt, phát ra cái ngửi ở trong, thu nạp các trần tượng đó gọi là tánh biết ngửi. Cái ngửi đó rời hai trần thông và bịt kia, rốt ráo không có tự thể. Nên biết cái ngửi đó, không phải từ cái thông, cái bịt mà đến, không phải từ nơi lỗ mũi mà ra, cũng không phải do hư không mà sanh. Vì cớ sao?
- Nếu từ cái thông mà đến, thì khi bịt, cái ngửi đã mất rồi, làm sao mà biết được bịt; nếu nhân cái bịt mà có, thì khi thông, không còn cái ngửi, làm sao biết được các mùi thơm, thối.
- Nếu từ lổ mũi sanh ra, hẳn không có cái thông, cái bịt, thì cái ngửi như vậy vốn không tự tánh.
- Nếu do hư không mà ra, thì cái ngửi đó, phải xoay lại ngửi lỗ mũi của ông; lại hư không tự ngửi, nào có dính gì chỗ thu nạp của ông.
- Vậy nên biết rằng Tỷ nhập là luống dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, ví như có người dùng lưỡi liếm mép, liếm mãi sanh ra mỏi mệt. Nếu người đó có bệnh thì có vị đắng. Còn người không có bệnh thì có chút vị ngọt. Do những cảm xúc ngọt, đắng, mà bày tỏ cái tánh nếm; còn khi không động thì thường có tánh nhạt. Cả cái nếm và cái mỏi mệt đồng là thể tánh Bồ đề chăm chú phát ra tướng mỏi mệt.
- Nhân nơi hai thứ vọng trần nhạt và ngọt, đắng, phát cái nếm ở trong, thu nạp các trần tượng đó, gọi là tánh biết nếm. Tánh biết nếm ấy rời hai trần nhạt và ngọt, đắng kia, rốt ráo không có tự thể.
- Thật vậy, A Nan, ông nên biết rằng cái biết đắng, biết nhạt như vậy, không phải từ vị ngọt, đắng mà đến, không phải nhân tánh nhạt mà có, không phải từ nơi lưỡi mà ra, cũng không phải do hư không mà sanh. Vì cớ sao?
- Nếu từ các vị ngọt đắng mà đến, thì khi nhạt, cái biết nếm đã diệt rồi, làm sao biết được nhạt; nếu từ cái nhạt mà ra thì khi ngọt, cái nếm đã mất rồi, làm sao biết được vị ngọt, đắng.
- Nếu do cái lưỡi sanh ra, hẳn không có những vị ngọt, đắng và nhạt, thì cái biết nếm ấy vốn không tự tánh.
- Nếu do hư không mà ra, thì hư không tự nếm, chứ không phải lưỡi ông nếm; lại hư không tự biết, nào có dính gì đến chỗ thu nạp của ông.
- Vậy nên biết rằng Thiệt nhập là luống dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, ví dụ như có người dùng bàn tay lạnh chạm bàn tay nóng, nếu thế bên lạnh nhiều hơn, thì bên nóng cũng thành lạnh theo, nếu thế bên nóng nhiều hơn, thì bên lạnh cũng thành ra nóng; rồi như vậy, do cái cảm xúc nhận biết trong lúc hợp lại mà rõ sự nhận biết lúc rời ra. Nếu cái thế chênh lệch hiện thành giữa nóng và lạnh, thì nhân đó phát ra mỏi mệt mà có cảm xúc. Cả cái biết cảm xúc cùng cái mỏi mệt đồng là thể tánh Bồ đề chăm chú phát ra tướng mỏi mệt.
- Nhân nơi hai vọng trần ly và hợp, phát ra cái hay biết ở trong, thu nạp các trần tượng đó, gọi là cái biết cảm xúc. Cái biết như thế, rời hai trần ly và hợp, trái và thuận kia, rốt ráo không có tự thể.
- Thật vậy, A Nan, ông nên biết cái cảm xúc đó, không phải từ cái ly, cái hợp mà tới, không phải từ cái trái, cái thuận mà có, không phải do nơi thân thể mà ra, cũng không phải do nơi hư không mà sanh. Vì cớ sao?
- Nếu từ cái hợp mà đến thì khi ly, cái biết đã mất rồi, làm sao biết được cái ly; đối với hai tướng trái và thuận thì cũng như vậy.
- Nếu từ thân thể mà ra, hẳn không có những tướng ly, hợp, trái, thuận, thì cái biết cảm xúc của ông vốn không tự tánh.
- Nếu từ nơi hư không mà ra, thì hư không tự hay biết, nào có dính gì chỗ thu nạp của ông.
- Vậy nên biết rằng Thân nhập là luống dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, ví như có người nhọc mỏi thì ngủ, ngủ chán thì thức dậy, khi nhận biết trần cảnh thì nhớ, khi hết nhớ thì gọi là quên. Các món sanh, trụ, dị, diệt, trái ngược đó, thói quen thu nạp đưa vào trong, không lẫn lộn nhau, gọi là Ý căn. Cả cái Ý căn cùng cái mỏi mệt, đồng là thể tánh Bồ đề chăm chú phát ra tướng mỏi mệt.
- Nhân nơi hai thứ vọng trần sanh và diệt, nhóm cái biết ở trong, thu nạp Pháp trần bên trong, dòng thấy nghe đi ngược lại vào bên trong mà không đến đâu, gọi là cái ý hay biết. Cái ý hay biết đó rời hai trần thức và ngủ, sanh và diệt kia, rốt ráo không có tự thể.
- Thật vậy, A Nan, nên biết cái Ý căn hay biết như thế, không phải từ nơi thức, nơi ngủ mà đến, không phải do cái sanh, cái diệt mà có, không phải từ nơi Ý căn mà phát ra, cũng không phải do nơi hư không mà sanh. Vì cớ sao?
- Nếu từ nơi thức mà đến, thì khi ngủ đã theo cái thức mà diệt rồi, còn lấy cái gì làm cái ngủ; nếu chắc lúc sanh mới có, thì khi diệt, đã hóa như không có rồi, thì lấy cái gì mà biết là diệt.
- Nếu do cái diệt mà có, thì khi sanh, không có diệt nữa, lấy gì mà biết là sanh.
- Nếu do Ý căn mà ra, thì hai tướng thức, ngủ thay đổi lẫn nhau nơi thân thể, nếu rời hai tướng ấy ra, thì cái ý hay biết đó, cũng như hoa đốm hư không, rốt ráo không có tự tánh.
- Nếu do hư không mà sanh, thì hư không tự biết, nào có dính gì chỗ thu nạp của ông.
- Vậy nên biết rằng Ý nhập là luống dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- Lại nữa, A Nan, vì sao bản tánh của Thập nhị xứ, vốn là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng?
- A Nan, ông hãy xem rừng cây Kỳ Đà và các suối ao đó; ý ông nghĩ thế nào?
- Như thế là Sắc trần sanh ra cái thấy, hay cái thấy sanh ra sắc tướng?
- A Nan, nếu cái thấy sanh ra sắc tướng, thì khi thấy hư không, không có sắc tướng, lẽ ra tánh thấy sanh ra sắc tướng đã tiêu mất rồi. Mà đã tiêu mất, thì tỏ ra hết thảy đều không; sắc tướng đã không, thì lấy gì rõ được tướng hư không?
- Đối với hư không thì cũng như vậy.
- Lại nếu Sắc trần sanh ra cái thấy, thì khi thấy hư không, không có sắc, cái thấy liền tiêu mất đi, tiêu mất thì tất cả đều không, lấy gì rõ được hư không và sắc tướng?
- Vậy nên biết rằng cái thấy cùng sắc, không, đều không có xứ sở; tức Sắc trần và cái thấy, hai xứ đó đều luống dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, ông lại nghe trong vườn Kỳ Đà nầy, khi đồ ăn dọn rồi thì đánh trống, khi chúng nhóm lại thì đánh chuông, tiếng chuông, tiếng trống trước sau nối nhau. Ý ông nghĩ thế nào?
- Như thế là, cái tiếng đến bên cái nghe hay cái nghe đến chỗ cái tiếng?
- A Nan, nếu như cái tiếng đó đến bên cái nghe, thì cũng như tôi khất thực trong thành Thất La Phiệt, tại rừng Kỳ Đà không có tôi nữa. Cái tiếng đó đã đến bên cái nghe của ông A Nan, thì lẽ ra ông Mục Liên, ông Ca Diếp không cùng nghe một lần, huống chi, trong nầy có 1250 vị Sa môn, một khi nghe tiếng chuông, đồng đến chỗ ăn cơm cả.
- Lại như cái nghe của ông đến bên cái tiếng, thì cũng như tôi đã về rừng Kỳ Đà rồi, trong thành Thất La Phiệt, không còn tôi nữa; vậy khi ông nghe tiếng trống, cái nghe của ông đã đến nơi tiếng trống rồi, thì khi tiếng chuông cũng phát ra, lẽ ra ông không thể nghe cả hai bên, huống nữa, ông còn nghe được cả tiếng voi, ngựa, trâu, dê và nhiều tiếng khác. Còn nếu không đi đến với nhau, thì lại không nghe.
- Vậy nên biết rằng cái nghe và cái tiếng đều không có xứ sở; tức cái nghe và Thanh trần, hai xứ đều luống dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, ông hãy ngửi hương chiên đàn trong lư nầy, hương ấy, nếu đốt đến một thù, thì cả thành Thất La Phiệt, trong 40 dặm, đồng thời đều ngửi mùi thơm. Ý ông nghĩ thế nào?
- Mùi thơm ấy sanh ra, do cây chiên đàn, do nơi lỗ mũi của ông hay do nơi hư không?
- Nếu như mùi thơm ấy sanh ra do lỗ mũi của ông, thì đã gọi là do lỗ mũi sanh ra, tất phải từ lỗ mũi mà ra, lỗ mũi không phải chiên đàn, làm sao trong lỗ mũi, lại có được mùi thơm chiên đàn?
- Lại đã gọi rằng ông ngửi mùi thơm, thì mùi thơm phải vào trong lỗ mũi, còn trong lỗ mũi phát ra mùi thơm, mà nói rằng ngửi được, thì không đúng nghĩa.
- Nếu sanh ra do nơi hư không, thì tánh hư không thường còn, mùi thơm cũng phải thường có, cần gì phải đốt cây khô chiên đàn trong lư rồi mới có. Nếu mùi thơm sanh ra do cây chiên đàn, thì cái chất thơm ấy nhân đốt mà thành khói; nếu lỗ mũi ngữi được, thì lẽ ra khói phải xông đến lỗ mũi, làm sao, khói đó lên trên không, chưa được bao xa, mà trong 40 dặm đều ngửi thơm cả.
- Vậy, nên biết rằng Hương trần và cái ngửi đều không có xứ sở, tức cái ngửi và Hương trần hai xứ đều luống dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, ông thường hai thời, ở trong chúng cầm bình bát khất thực. Trong đó, hoặc gặp những món tô, lạc, đề hồ, gọi là vị quý.
- Ý ông nghĩ thế nào? Vị đó sanh ra, do nơi hư không, do nơi cái lưỡi hay do nơi đồ ăn?
- A Nan, nếu vị ấy sanh ra do nơi cái lưỡi của ông, thì ở trong miệng ông chỉ có một cái lưỡi; cái lưỡi lúc bấy giờ đã thành vị tô rồi, nếu gặp đường phèn, lẽ ra cái vị không dời đổi, mà nếu không dời đổi, thì không gọi được là biết vị, còn nếu dời đổi, thì cái lưỡi không phải có nhiều tự thể, làm sao, một cái lưỡi lại biết được nhiều vị?
- Nếu sanh ra do đồ ăn, thì đồ ăn không có tri giác, làm sao tự biết được vị?
- Lại đồ ăn tự biết, thì cũng đồng như người khác ăn, nào có dính gì đến ông, mà gọi rằng ông biết vị?
- Nếu sanh ra do hư không, thì ông hãy nếm cái hư không xem là vị gì. Nếu cái hư không đó vị mặn, thì đã làm mặn cái lưỡi của ông, cũng phải làm mặn cái mặt của ông và mọi người trong cõi nầy, cũng giống như cá bể, đã thường chịu cái mặn, không còn biết thế nào là nhạt nữa.
- Nhưng nếu không biết nhạt, thì lại cũng không biết mặn. Mà đã không biết cái gì, thì làm sao còn gọi là biết vị?
- Vậy nên biết rằng các vị và cái lưỡi biết nếm đều không có xứ sở; tức cái biết nếm cùng với các vị, hai xứ đều luống dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, ông thường sớm mai lấy tay xoa đầu, ý ông nghĩ thế nào?
- Trong việc biết xoa đó, lấy cái gì làm cái biết cảm xúc?
- Cái biết ở nơi tay hay ở nơi đầu?
- Nếu nó ở nơi tay, mà cái đầu không biết, thì làm sao thành cái cảm xúc ấy?
- Còn nếu nó ở nơi đầu, mà cái tay vô dụng, thì làm sao gọi là cảm xúc được. Nếu cả cái đầu và cái tay, mỗi cái đều có biết, thì một mình ông A Nan phải có hai cái biết cảm xúc.
- Nếu cả đầu và tay đều do một cảm xúc sanh ra, thì tay và đầu lẽ ra chỉ có một tự thể; mà nếu chỉ có một tự thể, thì không năng, không sở, cảm xúc không thành lập được.
- Còn nếu là hai thể, thì cảm xúc ở phía nào, ở bên năng, thì không ở bên sở, ở bên sở, thì không ở bên năng; không lẽ hư không tạo thành cảm xúc cho ông?
- Vậy nên biết rằng cảm xúc và thân căn đều không có xứ sở; tức cái thân biết cảm xúc cùng cái cảm xúc, hai thứ đều luống dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, ông thường trong ý duyên với ba tánh: thiện, ác và vô ký, sanh ra có các Pháp trần. Những Pháp trần đó tức nơi tâm mà sanh ra hay là rời cái tâm, riêng có chỗ khác?
- A Nan, nếu tức nơi tâm, thì Pháp trần không phải là trần cảnh nữa, và như thế, thì nó không phải là cái sở duyên của tự tâm, làm sao thành một xứ được?
- Nếu rời cái tâm, riêng có chỗ khác, thì bản tánh của Pháp trần là có biết hay không có biết?
- Nếu có biết, thì gọi là tâm, nhưng nếu nó khác với ông và không phải trần cảnh, thì cũng như cái tâm của người khác; còn nếu nó tức là ông và cũng tức là tâm, thì làm sao cái tâm nơi ông lại thành hai được?
- Lại nếu như không có biết, cái Pháp trần đó đã không phải sắc, thanh, hương, vị, ly, hợp, lạnh, nóng và tướng hư không, thì nó sẽ ở chỗ nào?
- Hiện nay nơi sắc, không, không thể chỉ nó ra được; không lẽ trong nhân gian lại có cái ngoài hư không?
- Không có cảnh sở duyên, thì Ý căn do đâu mà lập thành một xứ được?
- Vậy nên biết rằng Pháp trần cùng Ý căn đều không có xứ sở; tức Ý căn cùng Pháp trần, hai xứ đều luống dối, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- Lại nữa A Nan, làm sao Thập bát giới vốn là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng?
- A Nan, như ông bày tỏ: Nhãn căn và Sắc trần làm duyên, sanh ra Nhãn thức. Thức đó lại là nhân Nhãn căn sanh ra, lấy Nhãn căn làm giới, hay nhân Sắc trần sanh ra, lấy Sắc trần làm giới?
- A Nan, nếu nhân Nhãn căn sanh ra, mà không có sắc có không, thì không thể phân biệt, dầu cho có cái thức của ông thì đem ra dùng về việc gì?
- Cái thấy của ông, ngoài những sắc xanh, vàng, trắng, đỏ, thì không thể biểu hiện được; vậy do đâu mà lập thành ra giới?
- Nếu nhân Sắc trần sanh ra, thì khi chỉ có hư không, không có sắc, lẽ ra cái thức của ông phải diệt, làm sao còn biết được là hư không?
- Nếu khi sắc tướng biến đổi thành hư không, ông cũng biết rằng sắc tướng biến đổi, mà cái thức của ông thì không biến đổi; thế thì, do đâu mà lập Sắc trần làm giới?
- Nếu theo Sắc trần mà biến đổi, thì tự nhiên Sắc trần không thành giới được. Nếu không biến đổi, thì là thường hằng, cái thức đã do Sắc trần sanh ra, lẽ ra không thể biết hư không ở đâu?
- Nếu gồm hai thứ Nhãn căn và Sắc trần chung cùng sanh ra; vậy, như hợp lại, thì ở giữa phải ly, còn như ly ra, thì hai bên lại hợp, thể tánh xen lộn, làm sao thành được giới?
- Vậy nên biết rằng Nhãn căn Sắc trần làm duyên, sanh ra giới Nhãn thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới Nhãn căn, Sắc trần và Nhãn thức, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, lại như ông bày tỏ: Nhĩ căn và Thanh trần làm duyên, sanh ra Nhĩ thức. Thức đó nhân Nhĩ căn sanh ra, lấy Nhĩ căn làm giới, hay nhân Thanh trần sanh ra, lấy Thanh trần làm giới?
- A Nan, nếu nhân Nhĩ căn sanh ra, mà không có hai tướng động, tĩnh hiện tiền, thì cái biết của Nhĩ căn cũng không thành; mà đã không biết gì, thì cái biết còn không thành, huống nữa cái thức phân biệt còn có hình trạng gì.
- Nếu nhân lỗ tai nghe thì đã không động, tĩnh, cái nghe cũng không thành; làm sao lấy hình sắc lỗ tai đối với Xúc trần, mà gọi được là giới Nhĩ thức; và cái giới Nhĩ thức như thế, do đâu mà lập ra.
- Nếu nhân Thanh trần mà sanh, thì cái Nhĩ thức nhân Thanh trần mà có, không có dính líu gì đến cái nghe; mà đã không nghe, thì cũng không biết các tướng Thanh trần ở đâu.
- Lại nói Nhĩ thức do Thanh trần sanh ra, dầu cho rằng Thanh trần, nhân cái nghe mà có tướng, thì cái nghe, lẽ phải nghe được Nhĩ thức. Nếu không nghe được Nhĩ thức, thì Thanh trần không phải là giới của Nhĩ thức. Nếu nghe được, thì Nhĩ thức cũng đồng như Thanh trần, và Nhĩ thức đã bị nghe, thì lấy cái gì biết được rằng đã nghe cái thức? Còn nếu cái thức không biết, thì cũng như cỏ như cây.
- Lại không lẽ Thanh trần và cái nghe xen lộn, thành ra giới ở giữa? Giới ở giữa đã không có, thì các tướng nội căn, ngoại trần, do đâu mà thành lập được.
- Vậy, nên biết rằng Nhĩ căn, Thanh trần làm duyên, sanh ra giới Nhĩ thức, cả ba chỗ đều không và ba giới Nhĩ căn, Thanh trần và Nhĩ thức, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, lại như ông bày tỏ: Tỷ căn và Hương trần làm duyên, sanh ra Tỷ thức. Thức đó lại nhân Tỷ căn sanh ra, lấy Tỷ căn làm giới, hay nhân Hương trần sanh ra, lấy Hương trần làm giới?
- A Nan, nếu nhân Tỷ căn sanh ra, thì trong tâm ông lấy cái gì làm Tỷ căn? Ông lấy cái hình tướng mũi thịt như hai móng tay, hay lấy cái tánh ngửi biết lay động làm Tỷ căn?
- Nếu lấy cái hình tướng mũi thịt, thì chất thịt là thân căn và cái biết của thân căn là cái biết cảm xúc. Đã gọi là thân căn thì không phải là Tỷ căn, đã gọi rằng cảm xúc, thì đó là Xúc trần đối với thân căn. Vậy, còn không có gì đáng gọi là Tỷ căn, do đâu mà lập thành giới?
- Nếu lấy cái ngửi biết làm Tỷ căn, thì trong tâm ông lấy cái gì làm cái có ngửi biết? Nếu lấy lỗ mũi thịt, thì cái biết của chất thịt là Xúc trần, chứ không phải như Tỷ căn; nếu lấy cái hư không làm cái có ngửi biết, thì hư không tự biết, còn xác thịt lẽ ra không biết, như thế, thì lẽ ra hư không là ông; thân của ông mà không có biết, thì ông A Nan hiện nay lẽ cũng không còn đâu nữa.
- Nếu lấy cái hương làm cái có ngửi biết, thì cái biết thuộc về hướng trần, nào dính gì đến ông?
- Nếu các mùi thơm, thối sanh ra do Tỷ căn của ông, thì hai mùi thơm, thối kia không sanh ra do cây y lan và cây chiên đàn; hai vật đó không tới, ông tự ngửi lỗ mũi là thơm hay là thối; thối thì không phải thơm, thơm thì không phải thối; nếu cả hai mùi thơm, thối đều ngửi được cả, thì một người ông phải có hai Tỷ căn và đứng trước tôi hỏi đạo phải có hai ông A Nan, thì ông nào mới là tự thể của ông.
- Còn nếu Tỷ căn là một, thì thơm, thối không hai, thối đã thành thơm, thơm đã thành thối, hai tánh đó đã không có, thì lấy gì lập được thành giới?
- Lại nếu nhân Hương trần mà có, thì Tỷ thức đã nhân Hương trần mà có, cũng như nhân con mắt có thấy, không thể thấy được con mắt; Tỷ thức nhân Hương trần mà có, lẽ ra không biết được Hương trần.
- Nếu biết được Hương trần, thì không phải do Hương trần sanh ra, nếu không biết được Hương trần, thì không phải là Tỷ thức.
- Hương trần mà không ngửi biết là có, thì cái giới Hương trần không thành; Tỷ thức mà không biết Hương trần, thì cái giới của nó, không phải do Hương trần mà lập. Đã không có cái thức trung gian, thì nội căn, ngoại trần cũng không thành và tất cả những điều ngửi biết kia rốt ráo đều luống dối.
- Vậy, nên biết rằng Tỷ căn, Hương trần làm duyên, sanh ra Tỷ thức, cả ba chỗ đều không và ba giới Tỷ căn, Hương trần và Tỷ thức, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, lại như ông bày tỏ: Thiệt căn và Vị trần làm duyên, sanh ra Thiệt thức. Thức đó lại nhân Thiệt căn sanh ra, lấy Thiệt căn làm giới, hay nhân Vị trần sanh ra, lấy Vị trần làm giới?
- A Nan, nếu nhân Thiệt căn sanh ra, thì như trong thế gian, những loại mía ngọt, mơ chua, hoàng liên đắng, muối mặn, tế tân, gừng, quế cay, đều không có vị, ông tự nếm cái lưỡi là ngọt hay là đắng.
- Nếu cái lưỡi là đắng, thì lấy cái gì mà nếm cái lưỡi; cái lưỡi đã không thể tự nếm được, thì lấy gì mà có hay biết; còn nếu cái lưỡi không đắng, thì tự nhiên Vị trần không sanh ra, làm sao mà lập được thành giới?
- Nếu nhân Vị trần sanh ra; vậy Thiệt thức đã là vị rồi, thì cũng đồng như Thiệt căn, không thể tự nếm được, làm sao còn biết được là có vị hay không có vị?
- Lại tất cả các vị không phải do một vật sanh ra. Các vị đã do nhiều vật sanh ra, thì cái Thiệt thức do Vị trần sanh ra, cũng phải có nhiều tự thể.
- Nếu tự thể của Thiệt thức là một và tự thể đó thật do Vị trần sanh ra, thì các vị mặn, nhạt, chua, cay và nhiều vị khác nhau, do các thứ đó hòa hợp cùng sanh ra, đều chỉ là một vị, lẽ ra không có phân biệt; mà đã không có phân biệt, thì không thể gọi là thức, làm sao còn gọi là giới Thiệt thức? Không lẽ hư không lại sanh được cái thức của ông?
- Nếu Thiệt căn, Vị trần, hòa hợp mà sanh ra cái thức ở giữa, vốn không tự tánh, làm sao mà lập được thành giới?
- Vậy, nên biết rằng Thiệt căn, Vị trần làm duyên, sanh ra Thiệt thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới Thiệt căn, Vị trần và Thiệt thức, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, lại như ông bày tỏ: Thân căn và Xúc trần làm duyên, sanh ra thân thức. Thức đó lại là nhân thân căn sanh ra, lấy thân căn làm giới, hay nhân Xúc trần sanh ra, lấy Xúc trần làm giới?
- A Nan, nếu nhân thân căn sanh ra, không có cái duyên của hai cảm xúc hợp và ly, thì thân căn còn biết gì. Nếu nhân Xúc trần sanh ra mà không có thân căn của ông, thì có ai không có thân căn mà biết hợp, biết ly được.
- A Nan, vật thì không biết cảm xúc, thân căn có biết, mới có cảm xúc; tức nơi cảm xúc, mà biết có thân căn, tức nơi thân căn mà biết có cảm xúc; nhưng đã tức là cảm xúc, thì không phải thân căn, mà đã tức là thân căn, thì không phải cảm xúc; cả hai tướng thân căn và Xúc trần, vốn không có xứ sở.
- Nếu Xúc trần hợp một với thân căn, thì tức là tự thể của thân căn rồi; còn nếu rời hẳn với thân căn, thì thành không có gì, như các tướng hư không.
- Nội căn, ngoại trần đã không thành, thì làm sao lập được cái thức ở giữa; cái thức ở giữa đã không lập được, thì nội căn, ngoại trần, bản tánh cũng rỗng không và cái thức của ông do đâu mà lập được thành giới.
- Vậy, nên biết rằng thân căn, Xúc trần làm duyên, sanh ra thân thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới thân căn, Xúc trần và thân thức, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
- A Nan, lại như ông bày tỏ: Ý căn và Pháp trần làm duyên, sanh ra Ý thức. Thức đó lại là nhân Ý căn sanh ra, lấy Ý căn làm giới, hay nhân Pháp trần sanh ra, lấy Pháp trần làm giới?
- A Nan, nếu nhân Ý căn sanh ra, thì trong ý ông, chắc phải có chỗ nghĩ ngợi mới phát minh được cái ý của ông; nếu không có các Pháp trần, thì Ý căn không thể sanh ra được. Rời các Pháp trần, Ý căn còn không có hình tướng, thì đem Ý thức ra mà dùng vào việc gì?
- Lại cái thức tâm của ông với các thứ nghĩ ngợi, các sự rõ biết là đồng nhau hay khác nhau.
- Nếu đồng với Ý căn, thì tức là Ý căn rồi, làm sao lại do Ý căn sanh ra?
- Nếu khác, mà không đồng với Ý căn, thì lẽ ra không còn biết gì.
- Nếu không biết gì, thì làm sao lại do Ý căn sanh ra; còng nếu có biết, thì làm sao lại chia ra ý thứ và Ý căn?
- Chỉ hai tánh đồng nhau, khác nhau còn không thành, làm sao lập được thành giới?
- Nếu nhân Pháp trần sanh ra, thì các pháp trong thế gian, không ngoài năm trần. Ông hãy xét các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc, có tướng rõ ràng đối với năm căn, đều không thuộc về phần thu nạp của Ý căn.
- Nếu Ý thức của ông quyết định nương nơi Pháp trần mà sanh ra, thì ông hãy xét từng pháp, từng pháp, hình trạng thế nào.
- Nếu rời hẳn các tướng sắc, không, động, tĩnh, thông, bịt, hợp, ly, sanh, diệt, thì rốt ráo không thành một pháp nào cả.
- Lại, sanh cũng là các pháp như sắc, như không sanh ra, diệt cũng như các pháp như sắc, như không diệt mất. Các nguyên nhân đã không thành, thì cái thức do nó sanh ra, còn có hình tướng gì; hình tướng còn không có, làm sao mà lập được thành giới.
- Vậy, nên biết rằng Ý căn, Pháp trần làm duyên, sanh ra Ý thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới Ý căn, Pháp trần và Ý thức, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Ông A Nan bạch Phật:
- Thưa Thế Tôn, Đức Như Lai thường nói về nhân duyên hòa hợp rằng: Tất cả các thứ biến hóa trong thế gian đều nhân bốn món Đại hòa hợp mà phát ra. Làm sao Đức Như Lai lại bác bỏ cả hai nghĩa nhân duyên và tự nhiên.
- Nay tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật rủ lòng thương xót chỉ bày cho chúng sanh nghĩa rốt ráo của trung đạo, không còn các đều hý luận.
Khi bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ông A Nan rằng:
- Trước đây ông nhàm chán các pháp Tiểu thừa Thanh Văn, Duyên giác, phát tâm tha thiết cầu đạo Vô thượng Bồ đề, nên tôi lúc nầy chỉ bày cho ông đệ nhất nghĩa đế, làm sao ông lại còn đem những nhân duyên vọng tưởng hý luận thế gian mà tự ràng buộc mình?
- Ông tuy nghe được nhiều pháp, nhưng cũng như người nói tên vị thuốc, mà đến khi thuốc thật ở trước mắt, thì lại không phân biệt được. Như Lai gọi là rất đáng thương xót. Nay ông hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ vì ông phân tách chỉ bày và cũng để cho những người tu đại thừa sau nầy thông suốt được thật tướng.
Ông A Nan yên lặng kính vâng thánh chỉ của Phật.
Phật dạy:
- A Nan, như ông đã nói: Bốn món Đại hòa hợp phát ra các thứ biến hóa trong thế gian.
- A Nan, nếu tánh các món đại kia không phải hòa hợp, thì không thể lẫn lộn với các đại khác, cũng như hư không không thể hòa hợp được với các sắc tướng.
- Nếu tánh của các Đại là hòa hợp, thì cũng đồng như các thứ biến hóa, thủy chung thành nhau, sanh diệt nối nhau, sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, sanh sanh diệt diệt, như vòng lửa quay tròn chưa hề dừng nghỉ.
- A Nan, như nước thành giá, giá lại thành nước.
- Ông hãy xét cái tánh của Địa đại, to thì làm đất liền, nhỏ thì làm vi trần, cho đến lân hư trần, do chẻ chất cực vi, là sắc tướng nhỏ tột, ra 7 phần mà thành. Nếu chẻ lân hư trần nữa, thì thật là tánh hư không.
- A Nan, nếu cái lân hư trần đó, chẻ ra thành được hư không, thì biết hư không cũng sanh ra được sắc tướng. Nay ông hỏi rằng do hòa hợp mà sanh ra các tướng biến hóa trong thế gian, thì ông hãy xét một cái lân hư trần, phải dùng bao nhiêu hư không hợp lại mới có, không thể lân hư trần hợp lại thành lân hư trần.
- Lại lân hư trần đã chẻ được thành hư không, thì phải dùng bao nhiêu sắc tướng hợp lại, mới thành cả hư không. Nhưng nếu sắc tướng hợp lại, thì hợp sắc tướng lại, không thể thành được hư không; còn nếu hư không hợp lại, thì hợp hư không lại, không thể thành được sắc tướng; sắc tướng còn có thể chẻ được, chứ hư không thì làm sao mà hợp được?
- Ông vốn không biết trong Như Lai tạng, tánh sắc là chân không, tánh không là chân sắc, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp Pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng hay biết, theo nghiệp mà phát hiện; thế gian không biết, lầm là nhân duyên và tánh tự nhiên, đều là những so đo phân biệt của Ý thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân thật.
- A Nan, Hỏa đại không có tự thể, gửi nơi các duyên mà phát hiện. Ông hãy xem các nhà, chưa ăn ở trong thành, khi muốn nhóm bếp, thì tay cầm kính hiển vi, đưa trước ánh sáng mặt trời mà lấy lửa.
- A Nan, phàm gọi là hòa hợp, thì như tôi cùng ông và 1250 vị Tỳ kheo, hiện nay, hợp thành một chúng; tuy chúng chỉ có một, song gạn xét về căn bản, thì mỗi người đều có thân, đều có danh tự họ hàng của mình, như ông Xá Lợi Phất, thì thuộc dòng Bà la môn, ông Ưu Lâu Tần Loa, thì thuộc dòng Ca Diếp, cho đến ông A Nan, thì thuộc dòng họ Cù Đàm.
- A Nan, nếu lửa đó nhân hòa hợp mà có, thi khi người kia cầm kính lấy lửa nơi ánh sáng mặt trời, lửa đó từ trong kính mà ra, do bùi nhùi mà có hay từ mặt trời mà đến?
- A Nan, nếu từ mặt trời mà đến, thì lửa ấy đã đốt được bùi nhùi trong tay của ông, những rừng cây mà ánh sáng mặt trời đi qua, lẽ ra đều bị đốt cả.
- Nếu từ trong kính mà ra, thì lửa ấy đã có thể từ trong kính ra đốt cháy bùi nhùi, làm sao cái kính lại không chảy; cho đến cả cái tay ông cầm kính còn không thấy nóng, thì làm sao kính lại chảy được.
- Nếu do bùi nhùi sanh ra, thì cần gì ánh sáng mặt trời và kính tiếp đối với nhau, rồi sau lửa mới sanh ra. Ông hãy xét cho kỹ, kính do tay cầm, mặt trời thì đi trên trời, còn bùi nhùi thì từ đất sanh ra, vậy lửa từ phương nào đi đến chỗ đó. Mặt trời và kính xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ lửa kia, không do đâu mà tự có.
- Ông còn không biết trong Như Lai tạng, tánh hỏa là chân không, tánh không là chân hỏa, bản nhiên thanh tịnh cùng khắp Pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng hay biết.
- A Nan, ông nên biết rằng người đời cầm kính một chỗ, thì một chỗ có lửa sanh ra, khắp Pháp giới đều cầm kính, thì khắp Pháp giới bốc lửa. Lửa bốc khắp thế gian, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm là nhân duyên và tánh tự nhiên, đều là những so đo phân biệt của Ý thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân thật.
- A Nan, tánh Thủy đại không nhất định, khi chảy, khi đứng không chừng. Như trong thành Thất La Phiệt, các ông Tiên Ca Tỳ La, Chước Ca La và các nhà đại huyễn thuật Bát Đầu Ma, Ha Tát Đa,… muốn cầu tinh Thái Âm để hòa với các thuốc huyễn thuật, thì các ông ấy, trong lúc sáng trăng trong, tay cầm hạt châu Phương chư, hứng nước trong ánh mặt trăng. Vậy, nước ấy từ trong hạt châu mà ra, do hư không mà có hay từ mặt trăng mà đến?
- A Nan, nếu từ mặt trăng mà đến, thì ở phương xa còn có thể làm cho hạt châu chảy ra nước, những rừng cây ánh sáng mặt trăng đi qua, lẽ ra đều phải phun nước; mà nếu phun nước, thì sao lại phải đợi có hạt châu Phương như mới chảy nước được?
- Còn nếu không phun nước, thì rõ ràng nước đó, không phải từ mặt trăng mà xuống. Nếu từ hạt châu mà ra, thì trong hạt châu ấy, thường phải chảy nước, sao còn phải đợi ánh sáng mặt trăng trong lúc nửa đêm?
- Nếu do hư không mà sanh, thì hư không không bờ bến, nước cũng không giới hạn; vậy từ cõi người đến cõi trời, lẽ ra đều phải chìm ngập cả, làm sao lại còn có thủy, lục, không, hành?
- Ông hãy xét cho kỹ, mặt trăng từ trên trời đi qua, hạt châu do tay cầm, còn cái mâm hứng nước thì do người sắp đặt; vậy nước kia từ phương nào mà chảy đến đó. Mặt trăng và hạt châu xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ nưóc kia, không do đâu mà tự có.
- Ông còn biết trong Như Lai tạng, tánh thủy là chân không, tánh không là chân thủy, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp Pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng hay biết. Một chỗ cầm hạt châu, thì một chỗ nước chảy ra, khắp Pháp giới cầm hạt châu, thì đầy Pháp giới nước sanh ra.
- Thủy đại sanh khắp thế gian, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát hiện; thế gian không biết, lầm là nhân duyên và tánh tự nhiên, đều là những so đo phân biệt của Ý thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân thật.
- A Nan, Phong đại không có tự thể, khi động, khi tĩnh không chừng. Ông thường sửa áo, vào trong đại chúng, gấu áo Tăng già lê động đến người bên cạnh, thì có chút gió phảy qua mặt người kia. Gió đó lại là, do gấu áo ca sa mà ra, do hư không mà phát khởi hay do mặt người kia mà sanh?
- A Nan, nếu gió đó phát ra, do gấu áo ca sa, thì ông đã mặc cả gió, lẽ ra cái áo phải bay tung ra, rời khỏi thân thể của ông. Nay tôi thuyết pháp, rũ áo ở trong Hội nầy, ông hãy xem cái áo tôi, gió ở chỗ nào? Không lẽ trong áo lại có chỗ chứa gió.
- Nếu gió đó do hư không sanh ra, thì khi cái áo ông không động, vì sao lại không phải gió?
- Và tánh hư không thường còn, thì gió lại phải thường sanh ra; khi không có gió, thì hư không phải diệt mất. Gió diệt, thì có thể thấy được, còn hư không diệt, thì hình trạng thế nào?
- Lại nếu có sanh diệt, thì không gọi là hư không và đã gọi là hư không, thì làm sao lại phát ra gió được?
- Nếu gió đó sanh ra do cái mặt người bị phảy, thì đã do mặt người đó sanh ra, lẽ ra phải phảy lại ông, sao tự ông sửa áo mà lại phảy ngược lại người kia?
- Ông hãy xét cho kỹ: Sửa áo là do nơi ông, cái mặt thì thuộc về người kia, hư không thì vắng lặng, không thể lay động, vậy gió từ phương nào giong ruổi đến đó. Tánh gió và tánh hư không cách xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ gió kia, không do đâu mà tự có.
- Ông thật không biết trong Như Lai tạng, tánh phong là tánh chân không, tánh không là chân phong, bản nhiên thanh tịnh cùng khắp Pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng hay biết.
- A Nan, như một mình ông hơi động cái áo, thì có chút gió phát ra; khắp Pháp giới đều phảy, thì khắp cõi nước sanh ra phong đại.
- Phong đại đầy nhẩy thế gian, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm là nhân duyên và tánh tự nhiên, đều là những so đo phân biệt của Ý thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân thật.
- A Nan, hư không không có hình, nhân sắc tướng mà tỏ bày ra. Như trong thành Thất La Phiệt, chỗ cách xa sông, những người dòng Sát lỵ, dòng Bà la môn, dòng Tỳ xá, dòng Thủ đà hay dòng Phả la đọa, dòng Chiên đà la,… khi dựng nhà mới, thì đào giếng mà lấy nước, đào đất ra một thước, thì trong đó có một thước hư không, như vậy cho đến đào đất ra một trượng, thì trong đó lại được một trượng hư không, hư không nông hay sâu, tùy đào đất ra nhiều hay ít. Hư không đó là nhân đất mà ra, nhân đào mà có hay không nhân gì mà tự sanh?
- A Nan, nếu hư không đó không nhân gì mà tự sanh, thì khi trước khi chưa đào đất, sao nơi đó lại không trống rỗng, mà chỉ thấy đất liền, hẳn không thông suốt.
- Nếu nhân đất mà ra, thì khi đất ra, phải thấy hư không vào; nếu đất ra trước, mà không thấy hư không vào, thì làm sao hư không lại nhân đất mà ra.
- Còn nếu không ra, không vào, thì hư không với đất vốn không khác nhau; không khác tức là đồng, thì khi đất ra, sao hư không lại không ra.
- Nếu nhân đào mà ra, thì phải đào ra hư không, chứ không đào ra đất; nếu không nhân đào mà ra, thì tự đào ra đất, làm sao lại thấy hư không?
- Ông hãy xét cho kỹ, nhận rõ xét chín: Đào, thì do tay người, theo phương hướng mà vận chuyển, đất, thì từ nơi đất liền mà dời đi, còn hư không, như vậy, thì nhân đâu mà ra. Đào là thật sự, hư không là rỗng trống, không có tác dụng gì với nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ hư không không do đâu mà tự ra.
- Nếu cái hư không đó, bản tánh viên mãn cùng khắp, không có lay động, thì nên biết hiện tiền hư không và bốn thứ Địa, Thủy, Hỏa, Phong, đều gọi là Ngũ đại, tánh thật viên dung, vốn là tánh Như Lai tạng, không sanh, không diệt.
- A Nan, tâm ông mê muội, không ngộ được bốn đại vốn là tánh Như Lai tạng, ông hãy xét cái hư không là ra, là vào hay không ra, không vào. Ông toàn không biết trong Như Lai tạng, tánh giác là chân không, tánh không là chân giác, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp Pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng hay biết.
- A Nan, như một giếng trống không, thì hư không sanh trong một giếng; hư không thập phương, thì cũng như vậy.
- Không đại cùng khắp mười phương, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát hiện; thế gian không biết, lầm là nhân duyên và tánh tự nhiên, đều là những so đo phân biệt của Ý thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân thật.
- A Nan, Kiến đại có giác quan mà không phân biệt, nhân các thứ sắc, không mà có. Như hiện nay ông ở trong rừng Kỳ Đà, sớm mai thì sáng, ban đêm thì tối, đến lúc nửa đêm, trăng tròn thì sáng, vắng trăng thì tối; những tướng sáng, tối ấy do cái thấy phân tách.
- Cái thấy đó, lại là đồng một thể với các tướng sáng, tối và cả hư không, hay không đồng một thể. Hoặc cũng đồng, cũng không phải đồng, hoặc cũng khác, cũng không phải khác?
- A Nan, nếu cái thấy đó, cùng với sáng, tối và hư không vốn là một thể, thì cái sáng, cái tối tiêu diệt lẫn nhau, khi tối, thì không sáng, khi sáng thì không tối; nếu như cái thấy cùng một thể với cái tối, thì khi sáng, cái thấy phải tiêu mất; nếu cùng một thể với cái sáng, thì khi tối, cái thấy phải diệt rồi, mà đã diệt, thì làm sao còn thấy được sáng, thấy được tối.
- Còn như sáng và tối khác nhau, còn cái thấy thì không sanh không diệt, thì làm sao lại thành đồng một thể được?
- Nếu cái thấy đó không phải đồng một thể với cái tối và cái sáng, thì ngoài cái sáng, cái tối và hư không ra, ông hãy phân tách cái thấy thành hình tướng gì; rời cái sáng, cái tối và hư không, cái thấy đó cũng đồng như lông rùa sừng thỏ; nếu tách hẳn ba thứ sáng, tối và hư không, thì do đâu mà thành lập được cái thấy?
- Sáng và tối trái ngược lẫn nhau, làm sao hoặc cũng là đồng; rời ba thứ sáng, tối và hư không, cái thấy vốn không còn gì, làm sao hoặc cũng là khác. Bên hư không, bên cái thấy, vốn không có bờ cõi, làm sao lại không phải đồng; thấy cái tối, thấy cái sáng, tánh không dời đổi, làm sao lại không phải khác?
- Ông hãy xét cho kỹ, suy xét chín chắn, nhận cho cùng, xét cho rõ, sáng là do mặt trời, tối là do đêm không trăng, thông suốt thuộc về hư không, ngăn bịt thuộc về đất liền còn cái thấy, như vậy nhân đâu mà ra. Cái thấy có giác quan, hư không thì không hay biết, không phải hòa, không phải hợp; không lẽ cái thấy, không do đâu mà tự phát ra.
- Còn như tất cả các sự thấy, nghe, hay, biết, bản tánh viên mãn cùng khắp, vốn không lay động, thì nên biết kiến đại cùng với hư không không bờ bến, không lay động và bốn món đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, có lay động, đều gọi là Lục đại, tánh thật là viên dung, vốn là tánh Như Lai tạng, không sanh, không diệt.
- A Nan, tánh ông chìm đắm, không ngộ được những sự thấy, nghe, hay, biết của ông vốn là tánh Như Lai tạng; ông hãy xét những thấy, nghe, hay, biết, đó là sanh hay diệt, là đồng hay là khác, là không phải sanh, không phải diệt, hay không phải đồng, không phải khác.
- Ông chưa từng biết trong Như Lai tạng, cái thấy nơi tâm tánh là cái tánh minh của bản giác; cái tánh minh của bản giác biểu lộ ra nơi cái thấy, bản nhiên thanh tịnh cùng khắp Pháp giới, theo tâm chúng sanh đáp ứng với lượng hay biết.
- Như nơi Nhãn căn, cái thấy cùng khắp Pháp giới, thì cái biết nghe, biết ngửi, biết nếm, biết xúc, biết các pháp, công năng nhiệm mầu sáng suốt cũng cùng khắp Pháp giới, đầy đủ thập phương hư không, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm là nhân duyên và tánh tự nhiên, đều là những phân biệt so đo của Ý thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân thật.
- A Nan, Thức đại không có nguồn gốc, nhân nơi sáu thứ căn, trần giả dối phát ra. Nay ông hãy xem khắp thánh chúng trong hội này; ông dùng con mắt lướt qua, mắt ông trông khắp, chỉ như bóng trong gương, không phân tách riêng biệt. Cái thức ông, trong ấy theo thứ lớp chỉ ra đây là ông Văn Thù, đây là ông Phú Lâu Na, đây là ông Mục Kiền Liên, đây là ông Tu Bồ Đề, đây là ông Xá Lợi Phất. Cái thức nhận biết như thế sanh ra do cái thấy, do các tướng, do hư không, hay không nhân gì bỗng nhiên sanh ra?
- A Nan, nếu cái thức của ông sanh ra do cái thấy; mà như không có các tướng sáng, tối và sắc, không, thì không còn cái thấy của ông; cái thấy còn không có, do đâu mà phát ra được cái thức?
- Nếu cái thức của ông sanh ra do các tướng, chứ không do cái thấy, thì đã không thấy sáng, cũng không thấy tối; sáng và tối đã không thấy, thì cũng không có sắc, không; các tướng kia còn không có, thì cái thức do đâu mà phát ra?
- Nếu cái thức sanh ra do hư không, ngoài các tướng và ngoài cái thấy, thì ngoài cái thấy không có cảm giác, tự nhiên không thể biết được cái sáng, cái tối, các sắc tướng và hư không; ngoài các tướng, thì không có các duyên của tiền trần, sự thấy, nghe, hay, biết, không do đâu mà thành lập được.
- Ngoài hai thứ căn trần ra, nếu là không, thì cũng đồng như không có, còn nếu là có, thì cũng không đồng như các vật, dầu cho phát ra cái thức của ông, thì đem ra mà phân biệt cái gì?
- Nếu cái thức không nhân gì bỗng nhiên mà phát ra, làm sao lại không phân biệt mặt trăng sáng, trong lúc mặt trời đứng bóng?
- Ông hãy xét kỹ, nhận xét chín chắn, cái thấy gá vào mắt của ông, các tướng thì trả về cho tiền cảnh, cái gì có thể hình trạng được, thì mới thành có, cái gì không có tướng, thì thành ra không; còn cái thức như vậy, nhân đâu mà ra?
- Cái thức thì lay động, cái thấy thì đứng lặng, không phải hòa, không phải hợp, cho đến các sự nghe, ngửi, hay, biết, cũng đều như vậy. Không lẽ cái thức nhận biết không do đâu mà phát ra.
- Nếu cái thức đó không do đâu, thì nên biết cái thức đại nhận biết và cái căn đại thấy, nghe, hay, biết, vẳng lặng cùng khắp, bản tánh không nương vào đâu mà có; hai món đại ấy cùng với Không, Địa, Thủy, Hỏa, Phong, đều gọi là Thất đại, tánh thật là viên dung, vốn là tánh Như Lai tạng, không sanh, không diệt.
- A Nan, tâm ông nông nổi, không ngộ được cái nhận biết các điều thấy nghe, vốn là tánh Như Lai tạng.
- Ông hãy xét sáu cái thức là đồng hay là khác, là không hay là có, là không phải đồng, không phải khác, hay không phải không, không phải có.
- Ông vốn không biết trong Như Lai tạng, cái thức nơi tâm tánh là cái tác dụng nhận biết của tánh minh bản giác, và tánh minh bản giác thật là chân tánh của thức đại; bản giác diệu minh yên lặng cùng khắp Pháp giới, ẩn hiện thập phương hư không, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm là nhân duyên, và tánh tự nhiên, đều là những so đo phân biệt của Ý thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân thật.
Khi bấy giờ, ông A Nan và cả đại chúng nhờ Phật nhiệm mầu chỉ bày, thân tâm vắng lặng, không điều ngăn ngại. Cả trong đại chúng đó, mỗi người tự biết tâm tánh cùng khắp mười phương, trông mười phương hư không như xem cái vật, cái lá nắm trong bàn tay; tất cả những vật có ra trong thế gian, đều tức là tâm tánh Bồ đề nhiệm mầu sáng suốt. Tâm tánh viên mãn cùng khắp, trùm chứa mười phương, trở lại xem cái thân cha mẹ sanh ra cũng như trong mười phương hư không kia, thổi một vi trần, dầu còn, dầu mất, chẳng khác biển lớn yên lặng, nổi lên một bọt nước, dầu sanh hay diệt, cũng không dính dáng gì. Rõ vậy tự biết nhận được tâm tánh bản lai thường trụ không diệt, lễ Phật chấp tay, được cái chưa từng có, ở trước Đức Như Lai, nói bài kệ tán thán Phật:
Đức Thế Tôn bất động,
Tổng trì tánh diệu trạm,
Nói pháp Thủ Lăng Nghiêm,
Thật hy hữu trong đời,
Khiến chúng tôi tiêu diệt
Vọng tưởng trong ức kiếp,
Không trải qua tăng kỳ
Mà chứng được Pháp thân.
Nguyện nay đã chứng quả
Thành được vị Bảo vương
Lại hóa độ như thế
Cho cả hằng sa chúng.
Đem thâm tâm phụng sự
Cõi nước như vi trần,
Làm được như vậy mới
Gọi là báo ơn Phật.
Cúi xin đức Thế Tôn
Chứng minh cho chúng tôi,
Thệ nguyện quyết vào trước
Trong ngũ trược ác thế;
Nếu còn một chúng sanh
Chưa thành được Phật đạo,
Quyết không ở nơi đó
Chịu chứng quả Niết bàn.
Kính thưa Đức Đại Hùng,
Đại Lực, Đại Từ Bi,
Trông mong lại xét trừ
Những điều lầm nhỏ nhiệm,
Cho chúng tôi sớm lên
Đến bậc Vô thượng giác,
Nơi thập phương thế giới
Ngồi đạo trường thuyết pháp.
Tánh hư không bất diệt
Dầu có thể tiêu mất,
Tâm nguyện chắc chắn nầy,
Quyết không hề lay động.
NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT