Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 5: Lục Căn Là Đầu Mối Của Sanh Tử Niết Bàn – Nhân Duyên & Phương Tiện Chứng Đắc Viên Thông
大佛頂首楞嚴經
- Published: 24 Nov 2021 08:00:19
- Modified: 31 Jul 2022 14:21:56
- Categories: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Tags: Cư sĩ Hạnh Cơ, Tâm Minh Lê Đình Thám
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh – Tập 19 – Số 945 (Mật Giáo Bộ)
Surangama Sutra – 大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經
Đại Phật Đỉnh
Như Lai Mật Nhân
Tu Chứng Liễu Nghĩa
Chư Bồ Tát Vạn Hạnh
Thủ Lăng Nghiêm Kinh
Ngài Bồ tát Long Thụ (thế kỷ II) thỉnh từ cung rồng Ta Kiệt La
Nước Trung Hoa – triều Đại Đường (618~907) – đời Trung Tông (705~710)
Ngài Sa môn Bát Lạt Mật Đế (người Thiên Trúc) dịch chép ra Phạn văn, sau đó truyền kinh sang Trung Hoa và tổng dịch năm 705
Sa môn Di Già Thích Ca (?~?) Hán dịch từ Phạn văn
Sa môn Hoài Địch (?~?) chứng minh bản dịch
Cư sĩ Phòng Dung (tể tướng đời Võ Chu) bình chương, bút thọ, bảo trợ bản dịch
Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (1897~1969) Việt dịch từ Hán văn năm 1961
daithua.com biên tập năm 2021
Quyển 5:
Lục Căn Là Đầu Mối Của Sanh Tử Niết Bàn
Nhân Duyên & Phương Tiện Chứng Đắc Viên Thông
Ông A Nan bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn, tuy Như Lai đã dạy nghĩa quyết định thứ hai, song tôi xem trong thế gian, những người cởi nút, nếu không biết đầu nút ở đâu, thì chắc không thể cởi được.
- Bạch Thế Tôn, tôi và các hàng Hữu học Thanh văn trong hội nầy cũng giống như vậy. Từ vô thủy đến nay, chúng tôi cùng sanh, cùng diệt với các thứ vô minh, tuy được thiện căn nghe nhiều Phật pháp thế nầy, nhưng tiếng là xuất gia mà cũng như người sốt rét cách nhật; xin nguyện đức đại từ thương xót kẻ chìm đắm, chính nơi thân tâm hiện nay, chỉ cho chúng tôi thế nào là nút, do đâu mà cởi, cũng khiến cho chúng sanh khổ não vị lai được khỏi luân hồi, không sa vào ba cõi.
Nói lời ấy rồi, ông A Nan và cả đại chúng, năm vóc gieo xuống đất, khóc lóc thành khẩn, trông mong lời khai thị vô thượng của Đức Như Lai.
Khi bấy giờ, Đức Thế Tôn thương xót ông A Nan và hàng Hữu học trong hội, lại cũng vì tất cả chúng sanh đời vị lai tạo cái nhân xuất thế, làm cái đạo nhãn tương lai; Ngài dùng tay sáng ngời xoa đỉnh đầu ông A Nan. Liền khi ấy, trong tất cả thế giới, chư Phật mười phương, sáu thứ rung động; các Đức Như Lai, số như vi trần; trong các cõi ấy, mỗi Ngài đều có hào quang báu từ nơi đỉnh đầu phát ra; hào quang ấy, đồng một thời từ các cõi kia đến rừng Kỳ Đà, soi nơi đỉnh đầu của Đức Như Lai; tất cả đại chúng đều được cái chưa từng có.
Khi bấy giờ, ông A Nan và cả đại chúng đều nghe các Đức Như Lai mười phương, số như vi trần, tuy khác miệng, nhưng đồng một lời, bảo ông A Nan rằng:
- Hay thay cho A Nan! Ông muốn biết cái câu sanh vô minh là cái đầu nút, khiến ông phải luân hồi sanh tử, thì nó chính là Lục căn của ông, chứ không phải vật gì khác; ông lại muốn biết tánh Vô thượng Bồ đề, khiến ông chóng chứng đạo quả an vui, giải thoát, vẳng lặng, diệu thường, thì cũng chính là Lục căn của ông, chứ không phải vật gì khác.
Ông A Nan, tuy được nghe pháp âm như vậy, tâm còn chưa rõ, cúi đầu bạch Phật:
- Làm sao cái khiến cho tôi bị luân hồi, sống chết hay được an vui, diệu thường, cũng đều là Lục căn, chứ không phải vật gì khác?
Phật bảo ông A Nan:
- Căn và trần, đồng một nguồn, cột và cởi không phải hai, cái thức phân biệt là luống dối như hoa đốm giữa hư không.
- A Nan, nhân cái trần, mà phát ra cái biết của căn, nhân cái căn, mà có ra cái tướng của trần, tướng phần sở kiến và kiến phần năng kiến đều không có tự tánh, như những hình cây lau gác vào nhau.
- Vậy nên nay ông chính nơi tri kiến, lập ra tướng tri kiến, thì tức là cỗi gốc vô minh; chính nơi tri kiến, không có tướng tri kiến, thì đó là vô lậu chân tịnh Niết bàn, làm sao trong ấy lại còn có vật gì khác.
Khi bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa nầy mà nói bài kệ rằng:
Nơi chân tánh hữu vi là không,
Vì duyên sanh, nên giống như huyễn;
Vô vi, thì không sanh, không diệt,
Chẳng thật như hoa đốm hư không.
Nói cái vọng để tỏ cái chân,
Vọng, chân ấy, cả hai đều vọng;
Còn không phải chân và phi chân,
Làm sao có năng kiến, sở kiến,
Thức ở giữa, không có thật tánh,
Vậy nên, như hình lau gác nhau.
Cột và cởi đồng một sở nhân,
thánh và phàm không có hai đường.
Hãy xét tánh hình lau gác nhau,
Đâu phải là không hay là có.
Mê mờ nghĩa đó, là vô minh,
Phát minh nghĩa đó, thì giải thoát.
Cởi nút, tuy phải theo thứ lớp,
Sáu đã cởi, một cũng không còn.
Nơi các căn, chọn tánh viên thông,
Nhập lưu được, thì thành chánh giác.
Thức A đà na rất nhỏ nhiệm,
Tập khí lưu hành như nước dốc;
E lầm là chân hay phi chân,
Nên tôi thường không diễn giảng đến,
Tự tâm trở chấp lấy tự tâm,
Không phải huyễn, thành ra pháp huyễn.
Không chấp trước, không gì phi huyễn
Cả cái phi huyễn còn không sanh,
Pháp huyễn, làm sao thành lập được.
Ấy gọi như huyễn Tam ma địa,
Bảo giác chắc như Kim cang vương,
Không nhiễm, tịnh như diệu liên hoa;
Gẩy ngón tay, vượt hàng Vô học;
Pháp ấy, không gì so sánh được,
Là một đường thẳng vào Niết bàn,
Của các Đức Thế Tôn mười phương.
Lúc ấy, ông A Nan và cả đại chúng nghe lời từ bi dạy bảo của Phật, kệ tụng tinh túy, diệu lý trong suốt, tâm được khai ngộ, đồng tán thán là pháp chưa từng có.
Ông A Nan chấp tay đỉnh lễ bạch Phật:
- Nay tôi nghe Phật mở lòng vô giá đại từ dạy cho những câu pháp chân thật thanh tịnh diệu thường, nhưng tâm còn chưa rõ thứ lớp cởi nút, đi đến cởi cả sáu, thì một cũng không còn, xin Phật rủ lòng đại bi thương xót trong hội nầy và những kẻ tương lai, bố thí cho pháp âm, rửa sạch những cấu nhiễm trầm trọng của chúng tôi.
Liền khi ấy Đức Như Lai, nơi sư tử tọa, sửa áo Niết bàn tăng, vén áo tăng già lê, dựa ghế thất bảo, đưa tay nơi ghế, lấy cái khăn hoa của cõi trời Kiếp Ba La đã cúng cho ngài, rồi ở trước đại chúng, cột thành một nút, đưa cho ông A Nan xem và bảo rằng:
- Cái nầy gọi là gì?
Ông A Nan và đại chúng đều bạch Phật rằng:
- Cái nầy gọi là nút.
Lúc ấy Đức Như Lai lại cột khăn hoa thành một nút nữa và hỏi ông A Nan:
- Cái nầy gọi là gì?
Ông A Nan và đại chúng lại bạch Phật rằng:
- Cái ấy cũng gọi là nút.
Phật tuần tự cột khăn hoa như vậy, tổng cộng thành sáu nút, mỗi khi cột xong một nút, đều lấy cái nút vừa cột xong trong tay, đưa hỏi ông A Nan:
- Cái nầy gọi là gì?
Ông A Nan và đại chúng cũng tuần tự đáp lại Phật:
- Cái ấy gọi là nút.
Phật bảo ông A Nan:
- Khi tôi mới cột khăn thì ông gọi là nút, cái khăn hoa này, trước kia chỉ có một cái, cớ sao lần thứ hai, lần thứ ba, các ông cũng gọi là nút?
Ông A Nan bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn, cái khăn hoa thêu dệt quý báu nầy vốn chỉ một thể, song theo ý tôi suy nghĩ, Như Lai cột một lần, thì được gọi là một nút, nếu cột một trăm lần, thì rốt cuộc phải gọi là trăm nút, huống chi, khăn nầy chỉ có sáu nút, không lên đến bảy, cũng không đứng ở số năm, sao Đức Như Lai chỉ cho cái đầu là nút, còn cái thứ hai, thứ ba, thì không gọi là nút?
Phật bảo ông A Nan:
- Cái khăn hoa báu nầy, ông biết nó vốn chỉ có một cái, đến khi tôi cột sáu lần, thì ông gọi là sáu nút; ông hãy xem xét bản thể cái khăn nầy là đồng, nhân vì các nút mà hóa ra khác.
- Ý ông nghĩ sao, khi mới cột nút ban đầu, thì gọi là nút thứ nhất, như thế, cho đến cột lần thứ sáu, thì gọi là nút thứ sáu.
- Nay, tôi muốn gọi nút thứ sáu là nút thứ nhất, có được không?
- Bạch Thế Tôn, không; nếu còn sáu nút, thì cái gọi là thứ sáu, rốt cuộc không phải là cái thứ nhất; dầu cho tôi cố gắng biện bạch suốt đời, cũng không thể làm cho sáu nút đổi tên được.
Phật dạy:
- Đúng thế, sáu nút không đồng nhau; tuy xét về bản thân, vẫn do một cái khăn tạo ra, nhưng rốt cuộc không thể làm cho sáu nút xáo lộn lẫn nhau.
- Sáu căn của ông thì cũng như vậy; trong thể ráo rốt đồng nhau, sanh ra rốt ráo khác nhau.
Phật bảo ông A Nan:
- Chắc hẳn ông không muốn thành ra sáu nút và trông mong chỉ thành một thể, thì ông phải làm thế nào?
Ông A Nan bạch:
- Nếu còn những nút đó, thì thị phi sôi nổi, trong đó, tự sanh ra nút nầy không phải nút kia, nút kia không phải nút nầy.
- Nếu ngày nay, Đức Như Lai cởi bỏ tất cả, không sanh nút nữa thì, không có bỉ thử, còn không gọi là một, làm sao mà thành sáu được.
Phật dạy:
- Cái nghĩa cởi cả sáu, một cũng không còn, thì cũng như thế. Do từ vô thủy, tâm ông điên loạn, tri kiến vọng phát ra, vọng phát mãi không thôi, làm cho tri kiến sanh bệnh, phát ra trần tướng; như trông con mắt mỏi mệt, thì có hoa đốm lăng xăng; tất cả những tướng thế gian, núi sông, đất liền, sống chết, Niết bàn, không nhân gì rối rít khởi lên, trong tánh sáng suốt yên lặng, đều là những tướng hoa đốm điên đảo do bệnh mê lầm phát ra.
Ông A Nan bạch:
- Cái bệnh mê lầm giống như cái nút kia, làm sao cởi bỏ cho được?
Đức Như Lai, lấy tay cầm cái khăn có nút, kéo riêng mối bên trái, rồi hỏi ông A Nan rằng:
- Thế nầy có cởi được chăng?
Ông A Nan bạch:
- Thưa Thế Tôn, không.
Phật liền lấy tay kéo riêng mối bên phải, rồi lại hỏi ông A Nan:
- Thế nầy có cởi được chăng?
Ông A Nan bạch:
- Thưa Thế Tôn, không.
Phật bảo ông A Nan:
- Nay tôi lấy tay kéo mối bên phải, bên trái mà rốt cuộc không cởi được, vậy ông dùng phương tiện thế nào mà cởi cho được.
Ông A Nan bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn, nên mở nơi trung tâm cái nút thì tan rã ngay.
Phật bảo ông A Nan:
- Đúng thế, đúng thế, muốn trừ cái nút thì phải cởi nơi trung tâm.
- A Nan, tôi nói Phật pháp do nhân duyên sanh, không phải lấy những tướng hòa hợp thô phù của thế gian.
- Như Lai phát minh các pháp thế gian và xuất thế gian, đều biết rõ bản nhân của nó theo những duyên gì mà phát ra, cho đến một giọt mưa ở ngoài hằng sa thế giới cũng biết số mục, hiện tiền các thứ cây tùng thẳng, cây gai cong, chim hộc trắng, chim quạ đen, đều rõ nguyên do.
- Vậy nên A Nan, tùy tâm ông lựa chọn nơi Lục căn; nếu trừ được cái nút nơi căn ấy rồi, thì trần tướng tự tiêu diệt; các vọng đã tiêu mất, thì chả phải chân là gì.
A Nan, nay tôi lại hỏi ông:
- Cái khăn hoa nầy hiện có sáu nút, nếu đồng một thời cởi ra, thì có thể đồng một thời trừ hết được chăng?
Ông A Nan bạch:
- Thưa Thế Tôn, không. Những cái nút nầy, khi cột lại, vốn có thứ lớp, thì ngày nay cũng theo thứ lớp mà cởi; sáu cái nút tuy đồng một thể, nhưng cột lại không đồng một thời, thì khi cởi nút, làm sao đồng một thời, mà trừ hết được?
Phật dạy:
- Việc cởi trừ cái nút nơi Lục căn cũng giống như vậy. Căn ấy khi bắt đầu cởi ra, thì trước hết được nhân không, đến khi tánh không viên mãn sáng suốt, thì giải thoát pháp chấp. Pháp chấp được giải thoát rồi, cả cái nhân không và pháp không cũng không còn; thế thì gọi là Bồ tát do Tam ma địa mà chứng được Vô sanh nhẫn.
Ông A Nan và cả đại chúng, nhờ Phật khai thị, huệ nhãn được viên dung, thông suốt, không còn điều gì nghi hoặc, đồng thời chấp tay, đỉnh lễ nơi hai chân mà bạch Phật rằng:
- Ngày nay, chúng tôi thân tâm sáng suốt, chóng được vô ngại; song tuy ngộ được cái nghĩa một và sáu đều không còn, nhưng còn chưa rõ căn tánh bản lai viên thông.
- Thưa Thế Tôn, chúng tôi xiêu giạt bơ vơ nhiều kiếp, ngờ đâu lại được dự vào dòng giống của Phật, như đứa con mất sữa, bổng nhiên gặp được từ mẫu.
- Nếu nhân cơ hội nầy mà được thành đạo, chỗ bản ngộ phù hợp với đạo lý vi diệu đã được nghe, thì cùng với những người chưa nghe, không có sai khác.
- Xin Phật rủ lòng đại bi ban cho chúng tôi những pháp bí mật trang nghiêm; thành tựu lời chỉ dạy cuối cùng của Như Lai.
Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, lui về an trụ nơi cơ cảm sâu nhiệm, trông mong Phật tâm truyền cho.
Khi bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo khắp các vị Đại bồ tát và các vị lậu tận Đại A la hán trong chúng rằng:
- Các ông là những vị Bồ tát và A la hán sanh trưởng trong Phật pháp, đã chứng quả Vô học, nay tôi hỏi các ông: Trong lúc ban đầu mới phát tâm, trong thập bát giới, ngộ được viên thông ở giới nào và do phương tiện gì được Tam ma địa?
Bọn ông Kiều Trần Na, năm vị Tỳ kheo, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Ở Lộc uyển và ở Kê viên, chúng tôi được xem thấy Đức Như Lai khi mới thành đạo. Chúng tôi do tiếng nói của Phật, tỏ ngộ được Tứ đế. Phật hỏi trong hàng Tỳ kheo, thì trước tiên tôi thưa đã hiểu.
- Như Lai ấn chứng cho tôi cái tên là A Nhã Đa. Đi sâu vào bản tánh nhiệm mầu, thì âm thanh thật là viên dung; tôi do âm thanh mà được quả A la hán.
- Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của tôi, thì do âm thanh là hơn cả.
Ông Ưu Ba Ni Sa Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Tôi cũng được thấy Phật trong lúc mới thành đạo; tôi quán tưởng bất tịnh, sanh lòng nhàm chán rời bỏ tột bậc, ngộ cái tánh của các sắc, từ tướng bất tịnh đến tướng xương trắng, tướng vi trần, rồi tan về hư không; cả hai cái không và cái sắc đều không, thành đạo Vô học.
- Đức Như Lai ấn chứng cho tôi cái tên là Ni Sa Đà; sắc của trần cảnh đã hết, sắc của tánh diệu được mật viên. Tôi do sắc tướng mà chứng quả A la hán.
- Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của tôi, thì do Sắc trần là hơn cả.
Ông Hương Nghiêm đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Tôi nghe Đức Như Lai dạy tôi quan sát chín chắn các tướng hữu vi. Khi ấy tôi từ giã Phật, đầu hôm về tĩnh tọa trong nhà thanh trai, thấy các Tỳ kheo đốt hương trầm thủy, hơi hương vẳng lặng bay vào trong mũi tôi.
- Tôi quán cái hơi ấy, không phải là cây, không phải là không, không phải là khói, không phải là lửa, đi ra không dính vào đâu, đến nơi cũng không do đâu; do đó, ý niệm phân biệt tiêu diệt, phát minh tánh vô lậu.
- Đức Như Lai ấn chứng cho tôi cái hiệu là Hương Nghiêm. Tướng hương tiền trần bổng diệt, thì diệu tánh của hương là mật viên. Tôi do hương nghiêm mà chứng quả A la hán.
- Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của tôi, thì do Hương trần là hơn cả.
Hai vị Pháp vương tử Dược Vương, Dược Thượng, cùng với năm trăm Phạm Thiên trong hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Từ kiếp vô thủy, chúng tôi làm lương y thế gian, trong miệng thường nếm những cỏ cây, kim thạch trong thế giới Ta Bà nầy, số mục lên đến mười vạn tám nghìn, biết hết các vị đắng, chua, mặn, nhạt, ngọt, cay,… cùng với các vị biến đổi, do các vị kia hòa hợp cùng sanh ra; thứ nào là lạnh, thứ nào là nóng, thứ nào có độc, thứ nào không độc, tôi đều biết cả.
- Được thừa sự các Đức Như Lai, rõ biết bản tánh của Vị trần, không phải không, không phải có, không phải tức là thân tâm, không phải thoát ly thân tâm; do phân biệt đúng bản tánh Vị trần mà được khai ngộ.
- Nhờ Phật ấn chứng cho anh em chúng tôi cái danh hiệu là Dược Vương và Dược Thượng Bồ tát; nay ở trong hội nầy làm vị Pháp vương tử. Chúng tôi nhân vi trần mà Giác ngộ, lên bậc Bồ tát.
- Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của chúng tôi, thì do Vị trần là hơn cả.
Ông Bạt Đà Bà La, với mười sáu vị Khai sĩ đồng bạn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Bọn tôi, trước kia nơi Đức Phật Oai Âm Vương, nghe pháp xuất gia. Trong lúc chư tăng tắm, tôi theo thứ lớp vào phòng tắm; bỗng nhiên ngộ được chân tánh của nước, đã không rửa bụi, cũng không rửa mình, chặng giửa yên lặng, được chỗ không có gì. Túc tập không quên, nên đến ngày nay theo Phật xuất gia, được thành quả Vô học.
- Đức Phật kia, gọi tôi tên là Bạt Đà Bà La. Do phát minh diệu tánh của Xúc trần, thành được bậc Phật tử trụ.
- Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của tôi, thì do Xúc trần là hơn cả.
Ông Ma Ha Ca Diếp và bà Tử Kim Quang Tỳ kheo ni,… liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Kiếp xưa, trong cõi nầy, có Đức Phật ra đời, tên là Nhựt Nguyệt Đăng diệt độ rồi, chúng tôi thắp đèn sáng mãi cúng dàng xá lợi, lại lấy vàng thắm thếp hình tượng Phật. Từ đó đến nay, đời nào đời nào, thân thể thường viên mãn, sáng ngời như vàng thắm. Bọn Tử Kim Quang Tỳ kheo ni nầy, tức là quyến thuộc của tôi lúc đó, cũng đồng một thời phát tâm như tôi.
- Tôi quán trong thế gian, Lục trần đều dời đổi tan nát, chí dùng pháp không tịch, tu định diệt tận, thì thân tâm mới có thể trải qua trăm nghìn kiếp như một thời gian gẩy ngón tay. Tôi do quán được các pháp là rỗng không, mà thành quả A la hán.
- Đức Thế Tôn bảo tôi tu hạnh đầu đà bậc nhất. Diệu tánh của các pháp được khai ngộ, thì tiêu diệt các lậu.
- Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của tôi, thì do Pháp trần là hơn cả.
Ông A Na Luật Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Lúc tôi mới xuất gia, thường thích nằm ngủ, nên Đức Như Lai quở tôi là loài súc sanh. Nghe lời Phật quở, tôi khóc lóc tự trách, suốt bảy ngày không ngủ, hư cả hai con mắt. Đức Thế Tôn dạy tôi tu pháp Lạc kiến Chiếu minh Kim cang Tam ma địa.
- Tôi không do con mắt, xem thấy mười phương rỗng suốt tinh tường như xem cái quả trong bàn tay; Đức Như Lai ấn chứng cho tôi thành quả A la hán.
- Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của tôi, thì xoay cái thấy trở về bản tánh, đó là thứ nhất.
Ông Chu Lợi Bàn Đặc Ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Tôi thiếu tụng trì, không có huệ đa văn. Khi mới gặp Phật, nghe pháp và xuất gia, tôi cố nhớ một câu kệ của Như Lai, song trong một trăm ngày, hễ nhớ trước thì quên sau, mà nhớ sau thì quên trước. Phật thương tôi ngu muội, dạy tôi phép an cư, điều hòa hơi thở ra vào.
- Tôi quán hơi thở, cùng tột các tướng sanh, trụ, dị, diệt nhỏ nhiệm, đến từng sát na; tâm tôi rỗng suốt, được đại vô ngại, cho đến hết các lậu, thành quả A la hán, trước pháp tọa của Phật, được ấn chứng thành quả Vô học.
- Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của tôi, thì xoay hơi thở về tánh rỗng không, đó là thứ nhất.
Ông Kiều Phạm Bát Đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Tôi mắc khẩu nghiệp, khinh rẻ, chế giễu vị Sa môn trong kiếp quá khứ, nên đời đời mắc bệnh nhai lại như trâu. Đức Như Lai chỉ dạy cho tôi Pháp môn Nhất vị thanh tịnh tâm địa.
- Tôi nhờ vậy, mà diệt được phân biệt vào Tam ma địa; tôi quán tánh biết vị, không phải thân thể, không phải ngoại vật, liền đó vượt khỏi các lậu thế gian, bên trong giải thoát thân tâm, bên ngoài rời bỏ thế giới, xa rời ba cỏi như chim sổ lồng, rời hết cấu nhiễm, tiêu diệt trần tướng, nên pháp nhãn được thanh tịnh, thành quả A la hán. Đức Như Lai ấn chứng cho tôi lên bậc Vô học.
- Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của tôi, trả các vị về phân biệt, xoay cái biết về tự tánh, đó là thứ nhất.
Ông Tất Lăng Già Bà Ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Tôi lúc mới phát tâm theo Phật nhập đạo, thường nghe Đức Như Lai dạy về những việc không vui được trong thế gian. Lúc đi khất thực trong thành, tâm tôi đang suy nghĩ Pháp môn Phật dạy, giữa đường, không ngờ bị gai độc đâm vào chân, cả mình đau đớn.
- Tâm niệm tôi có biết cái đau đớn ấy; tuy biết đau đớn nhưng đồng thời giác biết nơi tâm thanh tịnh, không có cái đau và cái biết đau.
- Tôi lại suy nghĩ: Một thân thể này, lẽ đâu có hai tánh biết; nhiếp niệm chưa bao lâu, thì thân tâm bỗng nhiên rỗng không; trong ba lần bảy ngày, các lậu đều tiêu hết, thành quả A la hán; được Phật ấn chứng lên bậc Vô học.
- Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của tôi, thì thuần một giác tánh, rời bỏ thân thể, đó là thứ nhất.
Ông Tu Bồ Đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lể nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Từ nhiều kiếp đến nay, tâm tôi được vô ngại, tự nhớ thụ sanh nhiều đời như số cát sông Hằng; lúc còn trong thai mẹ, cũng liền biết tánh không tịch, như thế cho đến mười phương đều thành rỗng không và cũng khiến cho chúng sanh chứng được tánh không; nhờ Đức Như Lai phát minh tánh giác là chân không, nên tánh không được viên mãn sáng suốt, chứng quả A la hán, liền vào bảo minh không hải của Như Lai, tri kiến đồng như Phật, được ấn chứng thành quả Vô học; tánh giải thoát rỗng không, tôi là hơn cả.
- Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của tôi: Các tướng đều xoay vào phi tướng, năng phi và sở phi đều hết, xoay các pháp trở về chỗ không có gì, đó là thứ nhất.
Ông Xá Lợi Phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Từ nhiều kiếp đến nay, chỗ nhận thấy của tôi được thanh tịnh; tuy tôi thụ sanh nhiều đời như số cát sông Hằng như vậy, mà đối với các pháp biến hóa thế gian và xuất thế gian, hễ thấy được đều thông suốt, không có ngăn ngại. Tôi ở giữa đường, gặp anh em ông Ca Diếp Ba theo rõi, nói pháp nhân duyên, thì ngộ được tâm không có bờ bến.
- Tôi theo Phật xuất gia, chỗ nhận thấy sáng suốt viên mãn, được pháp đại vô úy, thành quả A la hán, làm trưởng tử của Phật, từ miệng Phật mà sanh ra, do pháp Phật mà hóa sanh.
- Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của tôi, thì tánh thấy của tâm thể phát ra sáng suốt, cùng tột các tri kiến, đó là thứ nhất.
Ngài Phổ Hiền Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Tôi đã từng làm Pháp vương tử cho các Đức Như Lai như số cát sông Hằng; thập phương Như Lai dạy các đệ tử có căn cơ Bồ tát, tu hạnh Phổ Hiền, hạnh đó, do tôi mà đặt tên như vậy.
- Thưa Đức Thế Tôn, tôi dùng tánh nghe của tâm thể phân biệt tất cả tri kiến của chúng sanh. Nếu ở phương khác, cách ngoài hằng sa thế giới, có một chúng sanh, trong tâm phát được hạnh nguyện Phổ hiền, thì liền trong lúc ấy, tôi cưỡi voi sáu ngà, phân thân thành trăm nghìn, đến chỗ người ấy.
- Dầu cho người ấy nghiệp chướng còn sâu, chưa thấy được tôi, tôi cũng thầm kín xoa đỉnh đầu người ấy, ủng hộ an ủi, khiến cho được thành tựu.
- Phật hỏi về viên thông, tôi nói chỗ bản nhân của tôi là phát minh tánh nghe của tâm thể, phân biệt được tự tại, đó là thứ nhất.
Ông Tôn Đà A Nan đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Lúc tôi mới xuất gia theo Phật nhập đạo, tuy giữ đủ giới luật, nhưng trong lúc tu Tam ma địa, tâm thường tán loạn, chưa được quả vô lậu.
- Đức Thế Tôn dạy tôi và ông Câu Si La quán đầu lỗ mũi trắng. Lúc tôi bắt đầu tu quán ấy, trải qua ba lần bảy ngày, thấy hơi thở trong mũi ra vào như khói, thân tâm bên trong sáng soi thông suốt thế giới, khắp nơi thành trống không thanh tịnh, như ngọc lưu ly; tướng khói lần lần tiêu mất, hơi thở hóa thành trắng, đến khi tâm được khai ngộ, các lậu hết sạch, thì những hơi thở ra vào hóa thành hào quang, soi khắp thập phương thế giới, được quả A la hán. Đức Thế Tôn thọ ký cho tôi sẽ được quả Bồ đề.
- Phật hỏi về viên thông, tôi dùng phép nhiếp thu ý niệm nơi hơi thở, yên lặng lâu ngày, phát ra sáng suốt, sáng suốt viên mãn, diệt hết các lậu, đó là thứ nhất.
Ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Tôi từ nhiều kiếp đến nay, tài biện thuyết được vô ngại, tuyên dương các pháp Khổ, Không, thấu suốt tướng chân thật, như thế cho đến các Pháp môn bí mật hằng sa Như Lai, tôi phương tiện chỉ bày trong chúng, được sức vô úy.
- Đức Thế Tôn biết tôi có tài biện thuyết lớn lao, nên dùng pháp luân âm thanh, dạy tôi tuyên dương Chánh pháp. Tôi ở trước Phật, giúp Phật Chuyển pháp luân, nhân nói Chánh pháp, thành quả A la hán. Đức Thế Tôn ấn chứng cho tôi thuyết pháp hơn cả.
- Phật hỏi về viên thông, tôi dùng pháp âm hàng phục tà ma ngoại đạo, tiêu diệt các lậu, đó là thứ nhất.
Ông Ưu Ba Ly liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Chính tôi được theo Phật vượt thành xuất gia, xem thấy Đức Như Lai sáu năm siêng tu khổ hạnh, thấy Đức Như Lai hàng phục bọn tà ma, đối trị các ngoại đạo, giải thoát các lậu tham dục thế gian; tôi được nhờ Phật dạy giữ giới, cho đến ba nghìn uy nghi, tám vạn hạnh vi tế, các tánh nghiệp và giá nghiệp thảy đều thanh tịnh; do đó, thân tâm được tịch diệt, thành quả A la hán, nay làm vị cương kỷ trong chúng của Như Lai; Phật ấn chứng cho tôi giữ giới tu thân hơn cả trong chúng.
- Phật hỏi viên thông, tôi do chấp trì cái thân mà thân được tự tại, lần đến chấp trì cái tâm mà tâm được thông suốt, về sau cả thân và tâm tất cả đều viên thông, tự tại, đó là thứ nhất.
Ông Ma Ha Mục Kiền Liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Lúc trước tôi khất thực giữa đường, gặp ba anh em họ Ca Diếp Ba là ông Ưu Lâu Tần Loa, ông Già Gia và ông Na Đề, giảng nói nghĩa lý nhân duyên sâu xa của Như Lai; tôi liền phát tâm, được rất thông suốt; Như Lai ban cho áo ca sa đắp trên mình, râu tóc tự rụng.
- Tôi đi khắp mười phương được không ngăn ngại, phát minh thần thông, được trong chúng suy tôn là vô thượng, thành quả A la hán. Không những riêng Đức Thế Tôn, mà thập phương Như Lai đều khen sức thần thông của tôi thanh tịnh tròn sáng, tự tại không e sợ.
- Phật hỏi về viên thông, tôi do xoay ý niệm trở về tánh viên trạm nên tâm trí mở bày, như lắng nước đục, lâu thành trong sáng, đó là thứ nhất.
Ông Ô Xô Sắt Ma, ở trước Đức Như Lai, chấp tay đỉnh lễ nơi hai chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Tôi thường nhớ trước kia, trong kiếp xa xôi, tánh có nhiều tham dục; lúc ấy, có Đức Phật ra đời hiệu là Không Vương, bảo người đa dâm như đống lửa hồng và dạy tôi quán khắp những hơi nóng lạnh nơi trăm vóc tứ chi; tôi nhờ quán như vậy, mà được giác tánh sáng suốt lặng đứng bên trong, hoá tâm đa dâm thành lửa trí huệ.
- Từ ấy, các Đức Phật đều gọi tên tôi là Hỏa Đầu. Tôi dùng sức Hỏa quang Tam ma địa mà thành quả A la hán; trong tâm phát đại nguyện, khi các Đức Phật thành đạo, thì làm lực sĩ, thân ở bên Phật, uốn dẹp bọn tà ma quấy phá.
- Phật hỏi về viên thông, tôi dùng pháp quán các hơi ấm nơi thân tâm đều lưu thông không ngăn ngại; các lậu đã tiêu, sanh ra ngọn lửa đại trí quý báu, lên bậc vô thượng giác, đó là thứ nhất.
Ngài Trì Địa Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Tôi nhớ kiếp xưa, khi Đức Phật Phổ Quang ra đời, tôi làm Tỳ kheo, thường ở nơi các nẻo đường bến đò, đất đai hiểm trở eo hẹp, không đúng nguyên tắc, có thể làm tổn hại đến xe ngựa, thì tôi đều đắp bằng, hoặc làm cầu cống, hoặc gánh đất cát; siêng năng khó nhọc như vậy trong suốt thời gian vô lượng Phật ra đời. Hoặc có chúng sanh, ở nơi chợ búa, cần người mang đồ vật, trước tiên tôi mang hộ đến nơi, đến chốn, để đồ vật xuống, liền đi ngay, không lấy tiền thuê.
- Khi Đức Phật Tỳ Xá Phù ra đời, thế gian phần nhiều đói kém; tôi cõng giúp người, không kể gần xa, chỉ lấy một đồng tiền; hoặc có xe trâu sa xuống bùn lầy, tôi dùng sức mạnh đẩy bánh xe lên cho khỏi khổ não. Ông vua trong nước thuở đó thết trai mời Phật; lúc ấy, tôi liền sửa sang đường đất bằng phẳng, đợi Phật đi qua.
- Đức Tỳ Xá Như Lai xoa đỉnh đầu tôi mà bảo rằng: Nên bình cái tâm địa, thì tất cả đất đai trên thế giới đều bình. Tôi liền khai ngộ, thấy vi trần nơi thân thể cùng với tất cả vi trần tạo thành thế giới đều bình đẳng không sai khác, tự tánh của vi trần không chạm xát nhau, cho đến các thứ đao binh cũng không đụng chạm gì; tôi do nơi pháp tánh ngộ được Vô sanh nhẫn, thành quả A la hán, xoay tâm về Đại thừa, nên hiện nay, ở trong hàng Bồ tát; khi nghe các Đức Như Lai dạy về chổ tri kiến của Phật như Diệu Liên Hoa, thì tôi chứng tỏ đầu tiên, làm vị thượng thủ.
- Phật hỏi về viên thông, do tôi quán kỹ hai thứ trần nơi căn thân và khí giới đều bình đẳng không sai khác, vốn là Như Lai tạng giả dối phát ra trần tướng; trần tướng đã tiêu diệt, thì trí huệ được viên mãn, thành đạo vô thượng, đó là thứ nhất.
Ngài Nguyệt Quang đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Tôi nhớ hằng sa kiếp về trước, có Đức Phật ra đời, hiệu là Thủy Thiên, dạy hàng Bồ tát tu tập phép quán thủy để vào Tam ma địa; nghĩa là quán ở trong thân, tánh nước không gì ngăn ngại, quán từ nước mũi, nước bọt cho đến tất cả các thứ tân, dịch tinh, huyết, đại tiện, tiểu tiện; xoay vần trong thân đều đồng một tánh nước, quán thấy nước trong thân cùng nước các bể hương thủy của Phù tràng vương sát ở ngoài thế giới, đều bình đẳng không sai khác.
- Tôi trong lúc ấy, mới thành tựu phép quán nầy, chỉ thấy được nước, chưa được không có thân; lúc đang làm Tỳ kheo, tọa thiền trong phòng, tôi có người đệ tử dòm cửa sổ trông vào phòng chỉ thấy nước trong, đầy khắp trong phòng, chứ không có gì; nó nhỏ dại không biết, liền lấy một miếng ngói ném vào trong nước, đập vào nước phát ra tiếng, ngó quanh rồi bỏ đi; về sau, tôi xuất định, liền thấy đau tim như ông Xá Lợi Phất bị con quỷ Vi hại đập.
- Tôi tự suy nghĩ: Nay tôi đã được đạo A la hán, đã lâu không còn nhân duyên mắc bệnh được nữa, làm sao ngày nay lại sanh ra đau tim, không lẽ đã bị thoái thất rồi chăng?
- Khi bấy giờ, đệ tử của tôi đi đến, kể lại cho tôi những việc như trước, tôi mới bảo nó, sau nầy, nếu lại thấy nước, thì nên mở cửa, vào lấy viên ngói trong nước ấy đi. Đệ tử vâng lời tôi bảo; về sau, khi tôi nhập định, nó lại thấy nước với viên ngói rõ ràng, nó liền mở cửa, lấy viên ngói ra. Sau đó, tôi xuất định, thì thân thể lại được như cũ.
- Tôi đã gặp được vô lượng Phật, đến Đức Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như Lai, thì tôi mới được không còn thân riêng và cùng với nước bể hương thủy thập phương thế giới, đồng một tánh chân không, không hai không khác; hiện nay, ở nơi Đức Như Lai, được danh hiệu là Đồng Chân, dự hội Bồ tát.
- Phật hỏi về viên thông, tôi do quán tánh nước một mực lưu thông, được phép vô sanh nhẫn, viên mãn đạo Bồ đề, đó là thứ nhất.
Ngài Lưu Ly Quang Pháp vương tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Tôi nhớ hằng sa kiếp về trước, có Đức Phật ra đời, hiệu là Vô Lượng Thanh; ngài khai thị tánh bản giác diệu minh cho các hàng Bồ tát và dạy quán thế giới và thân chúng sanh nầy đều do sức lay động của vọng duyên chuyển biến ra.
- Tôi lúc bấy giờ, quán cái không gian an lập, quán cái thời gian thiên lưu, quán cái thân thể khi động, khi yên, quán cái thức tâm niệm niệm sanh diệt, tất cả đều lay động như nhau, bình đẳng không sai khác.
- Khi bấy giờ, tôi Giác ngộ cái tánh các thứ động ấy, đến không do đâu, đi không tới đâu; tất cả chúng sanh điên đảo, số như vi trần trong mười phương đều đồng một hư vọng; như vậy, cho đến tất cả chúng sanh trong một Tam thiên Đại thiên thế giới, cũng như hàng trăm loài muỗi mạt đựng trong một đồ đựng, vo vo kêu ầm, ở trong gang tấc, ồn ào rối rít.
- Tôi gặp Phật chưa bao lâu, thì được pháp Vô sanh nhẫn; khi bấy giờ, tâm đã khai ngộ, mới thấy cõi Phật Bất Động phương Đông, làm vị Pháp vương tử. Tôi thừa sự thập phương Phật, thân tâm phát ra sáng suốt, rỗng thấu không ngăn ngại.
- Phật hỏi về viên thông, tôi do quan sát sức lay động không nương vào đâu, ngộ được tâm Bồ đề, vào được Tam ma địa, hợp với nhất diệu tâm mà thập phương Phật truyền dạy, đó là thứ nhất.
Ngài Hư Không Tạng Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Tôi cùng Đức Như Lai chứng được thân vô biên nơi Đức Phật Định Quang; lúc ấy, tay tôi cầm bốn hạt châu báu lớn, soi tỏ cõi Phật thập phương số như vi trần, đều hóa thành hư không; lại ở nơi tự tâm hiện ra trí đại viên kính, trong ấy phóng ra mười thứ hào quang, vi diệu quý báu, soi khắp các Phù tràng vương sát cùng tột hư không mười phương, đều vào trong viên kính ấy, nhập với thân tôi và thân tôi đồng như hư không, không có ngăn ngại lẫn nhau, thân tôi lại khéo vào vi trần quốc độ, rộng làm việc Phật, được đại tuỳ thuận.
- Thần lực lớn đó là do tôi quán kỹ tứ đại không nương vào đâu, do vọng tưởng mà có sanh diệt, hư không không có hai và cõi Phật vốn là đồng, do phát minh được tánh đồng mà chứng vô sanh nhẫn.
- Phật hỏi về viên thông, tôi quán hư không không bờ bến; vào Tam ma địa, diệu lực viên mãn sáng suốt, đó là thứ nhất.
Ngài Di Lặc Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Tôi nhớ vi trần kiếp về trước, có Đức Phật ra đời tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh; tôi được xuất gia theo Đức Phật kia, nhưng tâm còn trọng hư danh thế gian, ưa giao du với các vọng tộc.
- Lúc ấy Đức Thế Tôn dạy tôi tu tập định duy tâm thức, tôi được vào Tam ma địa; trải qua nhiều kiếp đến nay, dùng pháp Tam ma địa ấy phụng sự hằng sa Phật, tâm cầu hư danh thế gian diệt hết không còn.
- Đến khi Đức Phật Nhiên Đăng ra đời, tôi mới được thành tựu Vô thượng Diệu viên thức tâm Tam ma địa. Tất cả cõi nước Như Lai tột bờ bến hư không, cho đến những điều tịnh, uế, có, không, đều do tâm tôi biến hóa hiện ra.
- Bạch Thế Tôn, do tôi rõ được tánh duy tâm thức như vậy, nên nơi thức tánh, xuất hiện vô lượng Như Lai và hiện nay, tôi được thọ ký, liền sau đây, bổ xứ thành Phật nơi cõi này.
- Phật hỏi về viên thông, tôi dùng phép quán mười phương đều duy thức, thức tâm được tròn sáng, chứng nhập tánh viên thành thật, xa rời tánh y tha khởi và tánh biến kế chấp, được pháp vô sanh nhẫn, đó là thứ nhất.
Ngài Đại Thế Chí Pháp vương tử cùng với năm mươi hai vị Bồ tát đồng tu một Pháp môn, liền từ chổ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Tôi nhớ hằng sa kiếp trước, có Đức Phật ra đời, tên là Vô Lượng Quang; lúc ấy mười hai Đức Như Lai kế nhau thành Phật trong một kiếp Đức Phật sau hết, hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang, dạy cho tôi phép Niệm Phật Tam ma địa.
- Ví như có người, một đằng chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu gặp cũng không là gặp, dầu thấy cũng là không thấy; nếu cả hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ mãi, khắc sâu vào tâm niệm, thì đồng như hình với bóng, cho đến từ đời nầy sang đời khác, không bao giờ cách xa nhau.
- thập phương Như Lai thương tưởng chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh, thì tuy nhớ, nào có ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không cách xa nhau.
- Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau, nhất định thấy Phật; cách Phật không xa thì không cần phương tiện, tâm tự được khai ngộ như người ướp hương thì thân thể có mùi thơm, ấy gọi là hương quang trang nghiêm. Bản nhân của tôi là dùng tâm niệm Phật mà vào pháp Vô sanh nhẫn, nay ở cõi nầy tiếp dẫn những người niệm Phật về cõi Tịnh Độ.
- Phật hỏi về viên thông, tôi thu nhiếp tất cả Lục căn, không có lựa chọn, tịnh niệm kế tiếp, được vào Tam ma địa, đó là thứ nhất
NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT