Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 7: Thần Chú “Thủ Lăng Nghiêm” – Nguyên Nhân Điên Đảo Của Mười Hai Loài Chúng Sanh
大佛頂首楞嚴經
- Published: 24 Nov 2021 10:15:29
- Modified: 31 Jul 2022 14:22:05
- Categories: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Tags: Cư sĩ Hạnh Cơ, Tâm Minh Lê Đình Thám
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh – Tập 19 – Số 945 (Mật Giáo Bộ)
Surangama Sutra – 大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經
Đại Phật Đỉnh
Như Lai Mật Nhân
Tu Chứng Liễu Nghĩa
Chư Bồ tát Vạn Hạnh
Thủ Lăng Nghiêm Kinh
Ngài Bồ tát Long Thụ (thế kỷ II) thỉnh từ cung rồng Ta Kiệt La
Nước Trung Hoa – triều Đại Đường (618~907) – đời Trung Tông (705~710)
Ngài Sa môn Bát Lạt Mật Đế (người Thiên Trúc) dịch chép ra Phạn văn, sau đó truyền kinh sang Trung Hoa và tổng dịch năm 705
Sa môn Di Già Thích Ca (?~?) Hán dịch từ Phạn văn
Sa môn Hoài Địch (?~?) chứng minh bản dịch
Cư sĩ Phòng Dung (tể tướng đời Võ Chu) bình chương, bút thọ, bảo trợ bản dịch
Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (1897~1969) Việt dịch từ Hán văn năm 1961
daithua.com biên tập năm 2021
Quyển 7:
Thần Chú “Thủ Lăng Nghiêm”
Nguyên Nhân Điên Đảo Của Mười Hai Loài Chúng Sanh
- A Nan, ông hỏi cách nhiếp trì tâm niệm, thì tôi đã nói rằng: Người muốn vào Tam ma địa, tu học Pháp môn nhiệm mầu, cầu đạo Bồ tát; trước hết cần giữ 4 thứ luật nghi đó trong sáng như giá, như sương, tự không thể sanh ra được tất cả ngành lá; ba ý nghiệp, bốn khẩu nghiệp ác chắn không còn có nhân mà sanh được.
- A Nan, nếu giữ 4 việc như vậy không thiếu sót, thì tâm còn không duyên với sắc, hương, vị, xúc, tất cả ma sự làm sao mà phát sanh được. Nếu có tập khí cũ không thể diệt trừ, ông dạy người đó nhất tâm tụng thần chú Vô Thượng Phật Đỉnh Quang Minh Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra của tôi, đó là cái tâm chú do Vô vi tâm Phật của Vô kiến đỉnh tướng Như Lai, từ nơi đỉnh hiện ra, ngồi trên hoa sen báu mà nói.
- Vả lại, ông cùng nàng Ma Đăng Già, do nhân duyên nhiều kiếp đời trước thành tập khí ân ái, không phải một đời hay là một kiếp; song, một phen tôi tuyên dương thần chú, thì Nàng Ma Đăng Già thoát hẳn khỏi lòng yêu, thành quả A la hán.
- Nàng kia, còn là dâm nữ, không có tâm tu hành, do sức thần chú giúp, cũng mau chứng quả Vô học; thế thì bọn ông, những hàng Thanh văn trong Hội nầy, cầu Tối thượng thừa, thì quyết định sẽ thành Phật, cũng ví như bụi bay gặp gió thuận, có khó khăn gì?
- Nếu có người, trong đời mạt pháp, muốn ngồi đạo tràng tu hành, trước hết phải giữ cấm giới Tỳ kheo thanh tịnh và cần phải lựa chọn những vị Sa môn giữ giới thanh tịnh bậc nhất để làm thầy mình; nếu không gặp được tăng chúng thật thanh tịnh, thì giới luật nghi chắc không thành tựu được.
- Sau khi giới được thành tựu rồi, người đó đắp y mới, sạch sẽ, đốt hương, ở riêng một mình, tụng thần chú, do tâm Phật nói, 108 biến; về sau, kết giới dựng lập đạo tràng, cầu các Đức Vô Thượng Như Lai, hiện ở trong các cõi nước mười phương, phóng hào quang đại bi đến rọi nơi đỉnh đầu mình.
- A Nan, những hàng thanh tịnh Tỳ kheo, hoặc Tỳ kheo ni, hoặc bạch y đàn việt như vậy, trong đời mạt pháp, tâm diệt được tham dâm, giữ giới thanh tịnh của Phật, ở trong đạo tràng, phát nguyện Bồ tát, khi ra, khi vào, khi tắm, khi rửa, cả trong sáu thời đều hành đạo như vậy, không ngủ, đến ba lần bảy ngày, thì tôi tự hiện thân đến trước người ấy, xoa đỉnh an ủi, khiến cho khai ngộ.
Ông A Nan bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn, tôi nhớ lời từ bi dạy bảo vô thượng của đức Như Lai, tâm đã khai ngộ, tự biết con đường tu chứng thành quả Vô học, song, những người tu hành, trong đời mạt pháp, muốn lập đạo tràng, cần kết giới thế nào, cho hợp với quy tắc thanh tịnh của chư Phật Thế Tôn?
Phật bảo ông A Nan:
- Nếu người trong đời mạt pháp, muốn lập đạo tràng, trước hết, phải lấy phân con đại lực bạch ngưu ở Tuyết sơn, bạch ngưu nầy, ăn cỏ thơm ngon tốt trong núi và chỉ uống nước trong trên Tuyết sơn, nên cái phân mịn màng; nên lấy cái phân nó, hòa hợp với hương chiên đàn để quét trên mặt đất.
- Nếu, không phải ở Tuyết sơn, thì phân bạch ngưu hôi nhớp, không thể trát đất được. Vậy thì, phải riêng ở nơi bình nguyên, đào bỏ các lớp đất trên mặt, lấy thứ đất vàng từ 5 thước trở xuống; rồi lấy 10 thứ hương là chiên đàn, trầm thủy, tô hợp, huân lục, uất kim, bạch giao, thanh mộc, linh lăng, cam tùng và kê thiệt, nghiền rây thành bột, trộn với đất ấy thành bùn, để trát trên mặt đất đạo tràng, mỗi bề 1 trượng 6, thành cái đàn bát giác.
- Giữa trung tâm đàn, an trí một hoa sen làm bằng vàng, bạc, đồng, cây, giữa hoa để một cái bát, trong bát đựng trước nước mù sương tháng tám và trong nước ấy tùy ý cắm các hoa lá hiện có.
- Rồi lấy 8 cái gương tròn, mỗi cái để một phía, chung quanh hoa sen và bát hoa. Bên ngoài những gương ấy, an trí 16 hoa sen và giữa các hoa sen để 16 lư hương cho trang hoàng. Trong lư hương đốt toàn hương trầm thủy, không cho thấy lửa.
- Lấy sữa bạch ngưu để trong 16 khí mãnh; lấy sữa làm bánh nướng và các thứ đường cát, bánh rán, bột sữa, tô hộp, mứt gừng, mật ong, bơ tốt, mật tốt, mỗi thứ 16 khí mãnh, đặt ở ngoài hoa sen và quanh vòng hoa sen; để cúng dâng chư Phật và các vị Đại Bồ tát.
- Trong mỗi thời ăn cơm và ở giữa đêm, lấy nửa thăng mật và 3 cáp bơ, trước đàn để riêng một lư lửa nhỏ; lấy hương đâu lâu bà, nấu lấy nước thơm, rửa than cho sạch; rồi đốt than đỏ hồng trong lư và rót mật bơ vào, đốt cho hết khói để cúng dường chư Phật, Bồ tát.
- Ở 4 phía ngoài, treo khắp phan và hoa; ở trong phòng đàn, an trí hình tượng hiện có của thập phương Như Lai và các vị Bồ tát nơi 4 vách. Nên ở chính giữa để hình tượng Phật Lô Xá Na, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc, Phật A Súc, Phật Di Đà và các hình tượng đại biến hóa của Ngài Quan Âm, lại thêm, hình tượng các vị Kim Cang Tạng Bồ tát để ở hai bên; những tượng của Đế Thích, Phạm vương, Ô sô sắt ma, Lam địa ca, Quân trà lỵ, Tỳ câu chi và Tứ Thiên vương, Tần na, Dạ ca,… treo ở hai bên cửa; lại lấy 8 cái gương treo úp trên hư không, mặt gương nầy đối chiếu với 8 gương trước, đã để trong đàn tràng, làm cho các hình ảnh lồng nhau nhiều lớp.
- Trong tuần 7 ngày đầu, chí thành đảnh lễ danh hiệu thập phương Như Lai, các vị Đại Bồ tát và A la hán, thường trong 6 thời tụng chú đi quanh đàn, chí tâm hành đạo, một thời thường là 108 biến.
- Trong tuần 7 ngày thứ 2, một mặt chuyên tâm phát nguyện Bồ tát, tâm không gián đoạn; trong luật nghi đạo, ta đã có chỉ dạy về nguyện.
- Trong tuần 7 ngày thứ 3, trong cả 12 thời, một mặt trì chú Bát Đát Ra của Phật; đến ngày thứ 7, thì thấy thập phương Như Lai một thời xuất hiện, trong chỗ ánh sáng các mặt gương giao xen và được Phật xoa đỉnh.
- Rồi, liền ở nơi đạo tràng đó, tu phép Tam ma địa, có thể khiến cho những người tu học như vậy, trong đời mạt pháp, thân tâm được sáng suốt, trong sạch như ngọc lưu ly.
- A Nan, nếu trong các thầy truyền giới cho vị Tỳ kheo ấy, hay trong 10 vị Tỳ kheo đồng hội, có một người giới hạnh không thanh tịnh, thì những đạo tràng như thế, phần nhiều là không thành tựu.
- Từ sau 3 tuần 7 ngày, ngồi nghiêm chỉnh an cư, trải qua một trăm ngày, thì những người có lợi căn, không rời khỏi chỗ ngồi, đã được quả Tu đà hoàn; dầu cho nơi thân tâm Thánh quả chưa thành, nhưng đã quyết định tự biết sẽ thành Phật, không sai chạy.
- Ông hỏi về đạo tràng, thì cách dựng lập như vậy.
Ông A Nan đỉnh lễ chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Từ khi xuất gia, tôi ỷ lại nơi lòng thương yêu của Phật; vì cầu huệ đa văn, chưa chứng quả vô vi, nên bị tà thuật Phạm Thiên kia bắt buộc; tâm tuy rõ ràng, nhưng sức không tự do, nhờ gặp ngài Văn thù, khiến cho tôi được giải thoát.
- Tuy tôi thầm nhờ sức của thần chú Phật đỉnh Như Lai, nhưng chính mình còn chưa được nghe chú ấy, xin nguyện đức đại từ tuyên nói lại cho, thương xót cứu giúp các hàng tu hành trong Hội nầy và những người đời sau, còn trong luân hồi, được nhờ mật âm của Phật, mà thân ý được giải thoát.
Lúc bấy giờ, tất cả đại chúng trong hội thảy đều làm lễ, chờ nghe những câu chú bí mật của Như Lai.
Lúc đó, Đức Thế Tôn, từ nơi nhục kế phóng ra trăm thứ hào quang báu, trong hào quang hiện ra hoa sen báu ngàn cánh, có hóa thân Như Lai ngồi trong hoa sen, trên đình phóng ra mười đạo hào quang bách bảo; trong mỗi mỗi đạo hào quang, đều hiện ra những vị Kim Cang Mật Tích, số lượng bằng mười số cát sông Hằng, xách núi, cầm xử, khắp cõi hư không. Đại chúng ngửa lên xem, vừa yêu vừa sợ, cầu Phật thương xót che chở, một tâm nghe đức Phóng quang Như Lai, nơi Vô kiến đỉnh tướng của Phật, tuyên nói thần chú:
Nam mô sát tát tha, sô ga đa da, a ra ha tê, sam muya sam bô đa sê.
Nam mô sát tát tha, bu đa cô ti, si ni sam.
Nam mô sát va, bu đa bu ti, sát ta bê tê.
Nam mô sát ta nam, sam muya sam bô đa cô ti nam.
Sa sê ra pa ca, săng ga nam.
Nam mô lu kê a ra han ta nam.
Nam mô su ru ta pa na nam.
Nam mô sa khít ri ta ca mi nam.
Nam mô lu kê sam mya ca ta nam.
Sam mya ca pa ra, ti pa ta na nam.
Nam mô đê va li si nan.
Nam mô si ta da pi ti da, ta ra li si nan.
Sê pa nu, gơ ra ha, sô ha sa ra ma tha nam.
Nam mô pát ra ha ma ni.
Nam mô in đa ra da.
Nam mô ba ga va tê.
Ru đa ra da.
U ma pun ti.
Sô hê da da.
Nam mô ba ga va tê.
Na ra da, na da.
Phun cha ma ha, sam mu ta ra.
Nam mô si khít ri ta da.
Nam mô ba ga va tê.
Ma ha ca ra da.
Ti ri pa ra na ga ra.
Pi ta ra, pa na ca ra da.
A ti mu tê.
Si ma sa na ni, ba si ni.
Ma tát ri ga na.
Nam mô si khít ri ta da.
Nam mô ba ga va tê.
Ta tha ga ta cô ra da.
Nam mô pát tâu ma cô ra da.
Nam mô pát cha ra cô ra da.
Nam mô ma ni cô ra da.
Nam mô ga cha cô ra da.
Nam mô ba ga va tê.
Ti ri đa su ra si na.
Pa ra ha ra na ra cha da.
Ta tha ga ta da.
Nam mô ba ga va tê.
Nam mô a mi ta ba da.
Ta tha ga ta da.
A ra ha tê.
Sam mya sam bô đa da.
Nam mô ba ga va tê.
A sô bi da.
Ta tha ga ta da.
A ra ha tê.
Sam mya sam bô đa da.
Nam mô ba ga va tê.
Bi sa cha da, cu ru phi chu ri da.
Pa ra bà ra cha da.
Ta tha ga ta da.
Nam mô ba ga va tê.
Sam pu su pi ta.
Sát lin nai ra si cha da.
Ta tha ga ta da.
A ra ha tê.
Sam mya sam bô đa da.
Nam mô ba ga va tê.
Sê kê dê mu na dây.
Ta tha ga ta da.
A ra ha tê.
Sam mya sam bô đa da.
Nam mô ba ga va tê.
Si tát na kê tu ra cha da.
Ta tha ga ta da.
A ra ha tê.
Sam mya sam bô đa da.
Ti piêu, nam mô sát khít ri ta.
Ê đam, ba ga va ta.
Sát tát tha, ga tu si ni sam.
Sát tát ta, pát tát lam.
Nam mô a ba ra si đam.
Paùt ra ti, dang ky ra.
Sát ra ba, pu ta gơ ra ha.
Ni gơ ra ha, khít ca ra ha ni.
Pát ra, pi ti da, cha đa ni.
A ca ra, mớt ri chu.
Pát ri tát ra da, nang khít ri.
Sát ra ba, pun đa na, mu sa ni.
Sát ra ba, tát si cha.
Tát si pháp, pun ma ni, phát ra ni.
Chê tu ra, si ti nam.
Gơ ra ha, sô ha sát ra nha cha.
Pi ta pang sa na khít ri.
A si cha pinh sê ti nam.
Na sa sát tát ra nha cha.
Pa ra sát tha na khít ri.
A si cha nam.
Ma ha gơ ra ha nha cha.
Pi ta pang sát na khít ri.
Sát va sê tu ru, ni ba ra nha cha.
Hu lam tát si pháp, nan cha na sê ni.
Pi sa sê, si tát ra.
A kít ni, u đa ca ra nha cha.
A pát ra si ta khu ra.
Ma ha pát ra chên chi.
Ma ha típ ta.
Ma ha ti cha.
Ma ha suê ta cha ba ra.
Ma ha pát ra pun đa ra, ba si ni.
A ri da ta ra.
Pi ri cô ti.
Si va pi cha da.
Pát cha ra, ma ly ty.
Pi sê ru ta.
Pút tang mang ca.
Pát cha ra, chi hô na a cha.
Ma ra chi ba, pát ra chi ta.
Pát cha ra sin chi.
Pi sê ra cha.
Sin ta sê, bê đê va, pu si ta.
Su ma ru pa.
Ma ha suê ta.
A ri da ta ra.
Ma ha ba ra, a pát ra.
Pát cha ra, xương khít ra chê ba.
Pát cha ra, cu ma ri.
Cu lam ta ri.
Pát cha ra, hốt sát ta cha.
Pi ti da khin chê na, ma ri ca.
Quát su mu, ba khít ra ta na.
Vê rô cha na, cu ri da.
Da ra thâu, si ni sam.
Pi chi lam ba ma ni cha.
Pát cha ra, ca na, ca pa ra ba.
Rô cha na, pát cha ra, tân chi cha.
Suê ta cha, ca ma ra.
Sát sa si, pa ra ba.
Ê tê di tê.
Mu ta ra, kít na.
Sô bê ra sam.
Quát pham tu.
In thâu na, ma ma sê.
U hum,
Ry si kít na.
Pa ra, sê si ta.
Sát tát tha, ga tu si ni sam.
Hu hum,
Tu ru ung,
Chim ba na.
Hu hum,
Tu ru ung,
Si đam ba na.
Hu hum,
Tu ru ung,
Pa ra si đi da, sam pát soa, na khít ra.
Hu hum,
Tu ru ung,
Sát va dác sa, hát ra sát sa.
Gơ ra ha nha cha.
Pi tang pang sát, na khít ra.
Hu hum,
Tu ru ung,
Chê tu ra, si ti nam.
Gơ ra ha, sa ha sát ra nam.
Pi tang pang sát na ra.
Hu hum,
Tu ru ung,
Ra soa,
Ba ga va.
Sát tát tha, ga tu si ni sam.
Pa ra tim, cha kít ri.
Ma ha, sô ha sát ra.
Bút su sa, ha sát ra, si ri sa.
Cô ti, sô ha sát ni, ti lê.
A pi đi si, ba ri ta.
Cha cha ang ca.
Ma ha pát cha ru ta ra.
Ti ri bô ba na.
Man ta ra.
U hum,
Sa si ti, bô ba tu.
Ma ma,
In thâu na, ma ma sê.
Ra cha ba da.
Chu ra pát da.
A chi ni ba da.
U đa ca ba da.
Pi sa ba da.
Sê sát ta ra ba da.
Ba ra chước khiết ra ba da.
Tát sít soa ba da.
A sê ni ba da.
A ca ra mơ ri chu ba da.
Đa ra ni, pu mi kim, ba ga va ta ba da.
U ra ca, ba đa ba da.
Rát cha than đa ba da.
Na ga ba da.
Pi thiêu tát ba da.
Sô pa ra na ba da.
Dác soa gơ ra ha.
Ra soa si gơ ra ha.
Pê ri ta gơ ra ha.
Pi sa cha gơ ra ha.
Pu ta gơ ra ha.
Cu ban đa gơ ra ha.
Pu tan na gơ ra ha.
Ca cha pu tan na gơ ra ha.
Si kin tu gơ ra ha.
A pa si ma ra gơ ra ha.
U than ma ta gơ ra ha.
Sa da gơ ra ha.
Hê ri ba ti gơ ra ha.
Sê ta ha ri nam.
Khít ba ha ri nam.
Ru ti ra ha ri nam.
Mang sa ha ri nam.
Mê ta ha ri nam.
Ma cha ha ri nam.
Cha ta ha ri nu.
Si pi ta ha ri nam.
Pi ta ha ri nam.
Ba đa ha ri nam.
A su cha ha ri nu.
Chít ta ha ri nu.
Ti sam sát bi sam.
Sát va gơ ra ha nam.
Pi đa da cha, san đa da mi
Kê ra da mi,
Pa ri pát ra chê ca, cát ri tam.
Pi đa da cha, san đa da mi
Kê ra da mi,
Đa din ni, cát ri tam.
Pi đa da cha, san đa da mi
Kê ra da mi,
Ma ha pát su pát tát da,
Ru đa ra, cát ri tam.
Pi đa da cha, san đa da mi
Kê ra da mi,
Na ra da na, cát ri tam.
Pi đa da cha, san đa da mi
Kê ra da mi,
Tát toa ga ru đa si, cát ri tam.
Pi đa da cha, san đa da mi
Kê ra da mi,
Ma ha ca ra, ma tát ri ga na, cát ri tam.
Pi đa da cha, san đa da mi
Kê ra da mi,
Ca pa ri ca, cát ri tam.
Pi đa da cha, san đa da mi
Kê ra da mi,
Cha da khít ra, ma tu khít ra.
Sát va ra tha sa tát na, cát ri tam.
Pi đa da cha, san đa da mi
Kê ra da mi,
Chư chát ra, ba ky ni, cát ri tam.
Pi đa da cha, san đa da mi
Kê ra da mi,
Pi ri dang cát ri chi
Nan đa kê sa ra, ga na phun ti.
Sát hê da, cát ri tam.
Pi đa da cha, san đa da mi
Kê ra da mi,
Na khít na sa ra ba na, cát ri tam.
Pi đa da cha, san đa da mi
Kê ra da mi,
A ra han, cát ri tam, pi đa da cha, san đa da mi,
Kê ra da mi,
Pi ta ra ga, cát ri tam.
Pi đa da cha, san đa da mi
Kê ra da mi, pát cha ra pa mi,
Cu hê da cu hê da,
Ca đi pát ti cát ri tam.
Pi đa da cha, san đa da mi
Kê ra da mi,
Ra soa mang,
Ba ga va,
In thâu na ma ma sê.
Ba ga va,
Si ta ta, pa tơ ra.
Nam mô suy tu tê.
A si ta na ra chi ca.
Pa ra va, si phu cha.
Pi ca sát tát ta pát ti ri.
Sập phật ra sập phật ra,
Đa ra đa ra,
Văn đa ra, văn đa ra, san đa san đa.
Hu hum,
Hu hum.
Phun cha,
Phun cha, phun cha, phun cha, phun cha.
Sô ha,
Hê hê phun.
A mâu ca da phun.
A pa ra đê ha ta phun.
Ba ra pa ra ta phun.
A sô ra, pi ta ra, pa ca phun.
Sát va đê bê pi phun.
Sát va na ga pi phun.
Sát va dác sa pi phun.
Sát va gan đa va pi phun.
Sát va pu ta na pi phun.
Ca cha pu ta na pi phun.
Sát va tát lang chi ti pi phun.
Sát va tát sít pi lây, cát si ti pi phun.
Sát va sấp ba lay pi phun.
Sát va a pa si mô lay pi phun.
Sát va sê ra ba na pi phun.
Sát va ti tê kê pi phun.
Sát va tát ma ta ky pi phun.
Sát va pi ta da ra si cha lây pi phun.
Cha da khít ra, ma tu khít ra,
Sát va ra tha sa đa kê pi phun.
Pi ti da cha lây pi phun.
Chê tu ra, phác ky ni pi phun.
Pát cha ra, cu ma ri,
Pi ta da, ra si pi phun.
Ma ha pa ra tinh dang, soa ky ri pi phun.
Pát cha ra sang khít ra da,
Pa ra chang ky ra cha da phun.
Ma ha ca ra da,
Ma ha mút tát ri ca na,
Nam mô sa khít ri ta da phun.
Pi si na phi dây phun.
Pu ra ha mâu ni dây phun.
A ky ni dây phun.
Ma ha khít ri dây phun.
Khít ra than chi dây phun.
Mít tát ri dây phun.
Ru tát ri dây phun.
Cha man đa dây phun.
Khít la ra tát ri dây phun.
Ca phun ri dây phun.
A ti mu chít ta, ca si ma sa na,
Ba su ni dây phun.
Din kít chít,
Sát tô va sê,
Ma ma in thâu na ma ma sê.
Tát si cha chít ta.
A mút tát ri chít ta.
U cha ha ra.
Ga ba ha ra.
Rô ti ra ha ra.
Ba sa ha ra.
Ma cha ha ra.
Cha ta ha ra.
Si pi ta ha ra.
Pát lác da ha ra.
Khin ta ha ra.
Pu sư pa ha ra.
Phô ra ha ra.
Ba sê ha ra.
Pún pa chít ta.
Tát si cha chít ta.
Lu ta ra chít ta.
Dác sa gơ ra ha.
Ra sát sa gơ ra ha.
Pay lê ta gơ ra ha.
Pi sa cha gơ ra ha.
Pu ta gơ ra ha.
Cu ban đa gơ ra ha.
Si khin ta gơ ra ha.
U tát ma ta gơ ra ha.
Sê dê gơ ra ha.
A pa sát ma ra gơ ra ha.
Chác khu cát, đa ky ni gơ ra ha.
Ri pút ti gơ ra ha.
Cha mi ca gơ ra ha.
Sa cu ni gơ ra ha.
Mu ta ra, nan ti ca gơ ra ha.
A lam ba gơ ra ha.
Khin tu pa ni gơ ra ha.
Sập phạt ra, in ca hê ca.
Chuy ti dác ca.
Tát lê ti dác ca.
Chê tát thác ca.
Ni đê sập phạt ra, pi sam ma sập phạt ra.
Pô ti ca,
Pi ti ca,
Sít lê si mi ca.
Sa ni pun ti ca.
Sát va sập phạt ra.
Sít ru kít tê.
Mút đa bi tát ru chê kim.
A y ru khim.
Mu khu ru khim.
Khít ri tát ru khim.
Khít ra ha, khít lam.
Khít na su lam.
Tan ta su lam.
Ngát ri da su lam.
Mát ma su lam.
Pát ri si ba su lam.
Pi lát si cha su lam.
U ta ra su lam.
Khít chi su lam.
Pát si ti su lam.
U ru su lam.
Sang ca su lam.
Hát si ta su lam.
Pát ta su lam.
Sa phang ang ca pát ra, chang kha su lam.
Pu ta bi ta đa.
Đa ky ni sấp ba ra.
Ta tát ru ca, kin chát ru kít chi, ba lu ta pi.
Sát pát ru ha lang ca.
Su sa tát ra, sa na khít ra.
Pi sa du ca.
A ky ni, u ta ca.
Mát ra bê ra, kin ta ra.
A ca ra, mít ri chát, than lim pu ca.
Ti lất chi cha.
Pi ri sít chít ca.
Sát va na khu ra.
Si dan ga pi, khít ra ri dác sa, tát ra sô.
Mát ra si, phê ti sam sa bê sam.
Si ta ta, pa tơ ra.
Ma ha pát cha ru, sít ni sam.
Ma ha pa ra chang ky lam.
Da pa tát đa sa du cha na.
Pin tan ly na.
Pi đa da, ban đam ca ru mi.
Ti su, ban đam ca ru mi.
Pát ra pi đa, ban đam ca ru mi.
Ta đya tha.
A ôm,
A na lê,
Bi su đê,
Bê ra, pát cha ra, đa ri.
Pun đa pun đa ni,
Pát cha ra pang ni phun.
Hu hum tu ru ung phun,
Sô va ha.
- A Nan, những câu nhiệm mầu, những kệ bí mật Tất Đát Đa Bát Đát Ra của hóa thân nơi hào quang đỉnh Phật, sanh ra tất cả chư Phật thập phương.
- thập phương Như Lai nhân chú tâm nầy, thành được vô thượng chánh biến tri giác.
- thập phương Như Lai nắm chú tâm nầy, uốn dẹp các ma, chế phục các ngoại đạo.
- thập phương Như Lai vận chú tâm nầy, ngồi hoa sen báu, ứng hiện trong các cõi nước như số vi trần.
- thập phương Như Lai ngậm chú tâm nầy, nơi cõi nước như số vi trần, xoay bánh xe pháp lớn.
- thập phương Như Lai giữ chú tâm nầy, có thể nơi mười phương xoa đỉnh thọ ký, tự mình quả vị chưa thành, cũng có thể nơi mười phương nhờ chư Phật thọ ký.
- thập phương Như Lai nương chú tâm nầy, có thể nơi mười phương cứu vớt các khổ như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, đui, điếc, ngọng, câm; các khổ oán tăng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc, Ngũ ấm xí thịnh; những tai nạn lớn nhỏ đồng thời được giải thoát; nạn giặc, nạn binh, nạn vua, nạn ngục, nạn gió, lửa, nước, cho đến đói khát bần cùng, liền được tiêu tan.
- thập phương Như Lai theo chú tâm nầy, có thể nơi mười phương, phụng sự thiện tri thức, trong bốn uy nghi, cúng dường được như ý; trong Pháp hội hằng sa Như Lai, được suy tôn là vị Đại Pháp vương tử.
- thập phương Như Lai dùng chú tâm nầy, có thể nơi mười phương, nhiếp thụ các nhân thân, khiến cho các hàng Tiểu thừa nghe tạng bí mật, không sanh lòng kinh sợ.
- thập phương Như Lai tụng chú tâm nầy, thành đạo vô thượng giác, ngồi dưới cây Bồ đề, vào Đại Niết bàn.
- thập phương Như Lai truyền chú tâm nầy, sau khi diệt độ rồi, phó chúc pháp sự của Phật, được trụ trì rốt ráo; giới luật nghiêm tịnh, thảy đều trong sạch.
- Nếu tôi nói chú Phật Đỉnh Quang Tụ Bát Đát Ra nầy, từ sáng đến tối, các tiếng nối nhau, trong đó những chữ, những câu cũng không trùng điệp, trải qua kiếp số như cát sông Hằng, rốt cuộc không thể hết được.
- Chú nầy cũng gọi tên là Như Lai Đỉnh.
- Hàng Hữu học các ông chưa hết luân hồi, phát lòng chí thành tu chứng quả A la hán, nếu không trì chú nầy, khi ngồi đạo tràng, mà khiến thân tâm xa rời được các ma sự, thì không thể được.
- A Nan, nếu trong các thế giới, có những chúng sanh, tùy cõi nước mình sanh ra, nào vỏ cây hóa, nào lá cây bối, nào giấy trắng, nào bạch diệp, dùng để viết chép chú nầy, đựng trong túi thơm; nếu người đó tối tăm chưa tụng, chưa nhớ được, mà hoặc đeo trên mình, hoặc viết trong nhà ở, thì nên biết người ấy, trọn đời tất cả các thứ độc không thể hại được.
- A Nan, nay tôi vì ông tuyên lại chú nầy, cứu giúp trong thế gian được đại vô úy và thành tựu trí xuất thế gian cho chúng sanh.
- Nếu sau khi tôi diệt độ rồi; chúng sanh trong đời mạt pháp, có người biết tự mình tụng, hoặc dạy người khác tụng chú nầy, nên biết những chúng sanh trì tụng như vậy, lửa không đốt được, nước không đắm được, độc lớn, độc nhỏ không thể hại được, cho đến các hàng trời, rồng, quỷ, thần, tinh, kỳ, ma, mị, có những chú dữ, đều không làm gì được.
- Tâm người ấy được chính thụ; tất cả chú trớ, yểm cổ, thuốc độc, kim độc, ngân độc và độc khí muôn vật như cỏ, cây, sâu, rắn, vào miệng người ấy đều thành vị cam lộ. Tất cả ác tinh với các quỷ thần, lòng dữ hại người, đối với người ấy, cũng không thể khởi ra ác niệm; Tần na, Dạ ca và các Quỷ vương dữ khác, cùng với quyến thuộc, đều lĩnh ơn sâu, thường gìn giữ ủng hộ.
- A Nan, nên biết chú nầy, thường có 84000 na do tha hằng hà sa câu chi chủng tộc Kim Cang Tạng Vương Bồ tát, mỗi mỗi đều có những chúng Kim Cang làm quyến thuộc, ngày đêm theo hầu.
- Giả sử có chúng sanh, với tâm tán loạn, chứ không phải Tam ma địa, tâm nhớ niệm trì chú nầy; thì các Kim Cang vương đó, cũng thường theo bên Thiện nam tử kia, huống nữa, là những người có tâm Bồ đề quyết định; đối với những người nầy, các vị Kim Cang Tạng Vương Bồ tát đó, dùng tịnh tâm thầm xúc tiến, phát huy thần thức; người ấy liền khi đó, tâm nhớ lại được 84000 hằng ha sa kiếp, rõ biết cùng khắp, được không nghi hoặc.
- Từ kiếp thứ nhất cho đến thân cuối cùng, đời đời người ấy không sanh vào các loài Dạ xoa, La sát, Phú đan na, Ca tra Phú đan na, Cưu bàn trà, Tỳ xá già,… cùng các loài ngạ quỷ, có hình, không hình, có tưởng, không tưởng và những chỗ dữ như thế.
- Thiện nam tử đó, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc viết, hoặc chép, hoặc đeo, hoặc giữ, hoặc cúng dường nhiều cách chú nầy, thì kiếp kiếp không sanh vào những nơi bần cùng hạ tiện, không thể ưa thích.
- Các chúng sanh đó, dù cho chính mình không làm việc phúc, thập phương Như Lai có các công đức đều cho họ hết, do đó, họ được trong những kiếp hằng sa vô số, không thể nói, không thể nói hết, thường cùng chư Phật đồng sanh một chỗ; vô lượng công đức nhóm lại như trái ác xoa, đồng một chỗ huân tu, hằng không phân tán.
- Vậy nên, có thể khiến người phá giới, mà giới căn cũng được thanh tịnh; người chưa được giới, khiến cho được giới; người chưa tinh tiến, khiến cho tinh tiến; người không trí huệ, khiến được trí huệ; người không thanh tịnh, mau được thanh tịnh; người không giữ trai giới, tự thành có trai giới.
- A Nan, Thiện nam tử ấy, khi trì chú nầy, giả sử có phạm cấm giới khi chưa thụ trì, thì sau khi trì chú, các tội phá giới, không luận nặng nhẹ, một thời, đều tiêu diệt, dù đã uống rượu, ăn thứ ngũ tân và các thứ không sạch, tất cả chư Phật, Bồ tát, Kim cang, Thiên tiên, Quỷ thần không cho là có lỗi; dù mặc y phục rách nát không sạch, thì một cái đi, một cái đứng, thảy đồng như thanh tịnh; dù không lập đàn, không vào đạo tràng, cũng không hành đạo mà tụng trì chú nầy, thì công đức cũng như vào đàn, hành đạo, không có khác vậy; dù gây những tội nặng ngũ nghịch, vô gián và phạm những tội tứ khí, bát khí của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì khi tụng chú nầy rồi, cũng như gió mạnh thổi tan đống cát, những nghiệp nặng như vậy, đều diệt trừ hết, không còn chút mảy may.
- A Nan, nếu có chúng sanh, từ vô lượng vô số kiếp đến nay, có tất cả những tội chướng nhẹ, nặng mà trong các đời trước, chưa kịp sám hối, nếu biết đọc, tụng, viết, chép chú nầy, giữ đeo trên thân mình hay để nơi chỗ ở, như trang, trạch, viên, quán, thì những nghiệp chứa nhóm từ trước như vậy, đều tiêu tan như nước sôi tiêu tuyết, chẳng bao lâu, đều ngộ được Vô sanh nhẫn.
- Lại nữa, A Nan, nếu có người đàn bà chưa sanh con trai, con gái, mong cầu có thai, mà biết chí tâm nhớ niệm chú, hoặc ở trên mình đeo chú Tất Đát Đa Bát Đát Ra nầy, thì liền sanh những con trai, con gái có phúc đức trí huệ; người cầu sống lâu, thì được sống lâu, người cầu quả báo mau được viên mãn, thì mau được viên mãn, cho đến về thân mệnh, sắc lực, thì cũng được viên mãn như vậy; sau khi mệnh chung, tùy nguyện được vãng sanh trong thập phương quốc độ, chắc chắn không sanh nơi biên địa hạ tiện, huống nữa là các tạp hình.
- A Nan, nếu các cõi nước, các châu, các huyện, các làng xóm bị nạn đói kém, dịch lệ, hoặc ở những nơi có đao binh, tặc nạn, đánh nhau, cãi nhau và tất cả những nơi có ách nạn khác, viết thần chú nầy, để trên bốn cửa thành, cùng các tháp hay trên các thoát xà và khiến chúng sanh hiện có trong cõi nước, kính rước chú nầy, lễ bái cung kính nhất tâm cúng dường, khiến trong nhân dân, mỗi mỗi người đeo chú trong mình, hoặc để nơi chỗ ở, thì tất cả tai ách thảy đều tiêu diệt.
- A Nan, chúng sanh trong cõi nước, chỗ nào, chỗ nào có được chú nầy, thì thiên long vui mừng, mưa gió thuận thời, ngũ cốc được mùa, dân chúng an vui; lại có thể trấn được tất cả ác tinh, nó tùy nơi, biến ra những điều quái dị; tai chướng không khởi lên, người không hoạnh tử, chết yểu, gông cùm, xiềng xích không dính vào mình, ngày đêm ngủ yên, thường không ác mộng.
- A Nan, cõi Ta Bà nầy có 84000 ác tinh tai biến, 28 đại ác tinh làm thượng thủ, lại có 8 đại ác tinh làm chủ, xuất hiện trên đời với nhiều hình trạng, có thể sanh ra các tai nạn dị kỳ cho chúng sanh; chỗ nào có chú này, thì tất cả đều tiêu diệt, lấy 12 do tuần làm vòng kết giới, các tai biến hung dữ, hẳn không thể vào được.
- Vậy nên Như Lai tuyên dạy chú nầy, bảo hộ cho những người tu hành sơ học, trong đời vị lai, vào Tam ma địa, thân tâm thư thái, được đại an ẩn, không còn tất cả các ma, quỷ thần, và những oan khiên đời trước, nghiệp cũ, nợ xưa, từ vô thủy tới nay, đến khuấy hại nhau.
- Ông với những người Hữu học trong chúng và những kẻ tu hành đời vị lai, y như lời dạy của tôi mà lập đàn trường, đúng theo pháp mà trì giới, gặp được tăng chúng thanh tịnh chủ trì việc thụ giới, đối với chú tâm nầy, không sanh lòng nghi hối; những Thiện nam tử như thế, chính nơi cái thân cha mẹ sanh ra, mà không được tâm thông, thì thập phương Như Lai bèn là vọng ngữ.
Phật dạy lời ấy rồi, vô lượng trăm ngàn Kim Cang trong Hội, một thời đứng trước Phật, chấp tay đỉnh lễ mà bạch Phật rằng:
- Như lời Phật dạy, chúng tôi phải thành tâm bảo hộ những người tu đạo Bồ đề như vậy.
Khi bấy giờ, Phạm vương và Đế Thích, Tứ Thiên đại vương cũng ở trước Phật, đồng thời đỉnh lễ mà bạch Phật rằng:
- Xét có người lành tu học như vậy, chúng tôi phải hết lòng chí thành bảo hộ, khiến cho trong một đời, tu hành được như nguyện.
Lại có, vô lượng đại tướng Dạ xoa, các vua La sát, vua Phú đan na, vua Cưu bàn trà, vua Tỳ xá già, các Đại Quỷ vương như Tần na, Dạ ca, và các Quỷ soái, cũng ở trước Phật, chất tay đỉnh lễ mà bạch Phật rằng:
- Chúng tôi cũng thệ nguyện hộ trì cho người đó, khiến cho tâm Bồ đề mau được viên mãn.
Lại có, không lường Nhật, Nguyệt Thiên tử, Phong sư, Vũ sư, Vân sư, Lôi sư cùng với Điện bá và các Niên tuế tuần quan, chư tinh và quyến thuộc,… cùng ở trong hội, đỉnh lễ chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Chúng tôi bảo hộ người tu hành ấy, lập ra đạo tràng, được không e sợ.
Lại có, vô lượng Sơn thần, Hải thần, tất cả tinh kỳ, đất đai muôn vật, thủy, lục, không, hành, với Phong thần vương và chư thiên Vô Sắc Giới, ở trước Như Lai, đồng thời cúi đầu bạch Phật rằng:
- Chúng tôi cũng bảo hộ người tu hành ấy, được thành Bồ đề, hẳn không ma sự.
Khi bấy giờ, 84000 na do tha hằng hà sa câu chi Kim Cang Tạng Vương Bồ tát, ở trong hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Thế Tôn, như bọn chúng tôi, công nghiệp tu hành, đã thành đạo Bồ đề lâu rồi, mà không nhận lấy Niết bàn, thường theo chú nầy, cứu giúp những người chân chính tu hành pháp Tam ma địa trong đời mạt pháp.
- Bạch Thế Tôn, những người tu tâm vào chính định như thế, dù ở đạo tràng, hay là những lúc kinh hành, cho đến khi tán tâm đi chơi trong làng xóm, đồ chúng chúng tôi thường phải đi theo thị vệ người ấy, dù cho Ma vương, Đại Tự Tại thiên muốn được phương tiện khuấy phá, cũng không thể được; các quỷ thần nhỏ, phải cách xa người lành ấy, ngoài 10 do tuần, trừ khi, họ phát tâm thích người tu thiền.
- Bạch Thế Tôn, những ác ma như thế, hay quyến thuộc của ma, muốn đến xâm lấn khuấy phá người lành ấy, chúng tôi dùng bảo xứ đập nát cái đầu như vi trần, thường khiến cho người ấy tu hành được như nguyện.
Ông A Nan, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
- Chúng tôi ngu độn, ưa huệ đa văn, đối với các tâm hữu lậu, chưa cầu thoát ly, nhờ Phật từ bi dạy bảo được lối huân tu chân chính, thân tâm khoan khoái, được lợi ích lớn.
- Bạch Thế Tôn, những người tu chứng pháp Tam ma địa của Phật như thế, chưa đến Niết bàn, thì thế nào gọi là Càn huệ địa, trong 44 tâm, đến thứ bậc nào, mới được danh mục tu hành, đến phương sở nào, mới gọi là nhập địa, thế nào, gọi là Đẳng giác Bồ tát?
Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, trong đại chúng đều nhất tâm, chăm chỉ mong đợi từ âm của Phật.
Khi bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ông A Nan rằng:
- Hay thay! Hay thay! Các ông lại biết, vì cả đại chúng và hết thảy chúng sanh tu Tam ma địa, cầu pháp Đại thừa trong đời mạt pháp, xin tôi chỉ trước đường tu hành vô thượng chân chính từ phàm phu đến Đại Niết bàn; nay ông hãy nghe cho chín, tôi sẽ vì ông mà nói.
Ông A Nan và đại chúng chấp tay sạch lòng, yên lặng thụ giáo.
Phật dạy:
- A Nan, nên biết diệu tánh là viên minh, rời các danh tướng, bản lai không có thế giới chúng sanh. Nhân cái vọng mà có sanh, nhân cái sanh mà có diệt, sanh diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chân, ấy gọi là hai hiệu chuyển y Vô thượng Bồ đề và Đại Niết bàn của Như Lai.
- A Nan, nay ông muốn tu pháp Chân Tam ma địa, đến thẳng Đại Niết bàn của Như Lai, trước hết, phải biết hai cái nhân điên đảo của thế giới và chúng sanh nầy; điên đảo không sanh, đó là Chân Tam ma địa của Như Lai.
- A Nan, thế nào gọi là điên đảo về chúng sanh?
- Do cái tâm bản tánh là minh và tánh minh ấy viên mãn cùng khắp, nên nhân tánh minh phát ra hình như có tánh; mà vọng kiến nhận là có tánh sanh ra, từ chỗ rốt ráo là không, lại thành rốt ráo là có. Có cái sở hữu như thế, là do phi nhân làm nhân và những tướng năng trụ, sở trụ rốt ráo không có cỗi gốc. Rồi gốc nơi cái vô trụ đó, mà kiến lập ra thế giới và các chúng sanh.
- Vì mê, không nhận được tánh viên minh sẵn có, nên sanh ra hư vọng, tánh hư vọng không có tự thể, không phải thật có chỗ nương đứng. Hầu muốn trở lại chân tánh, thì cái muốn chân đó, đã không phải là tánh chân như chân thật. Cầu trở lại không đúng chân lý, thì hiện thành ra những phi tướng: không phải sanh gọi rằng sanh, không phải trụ gọi rằng trụ, không phải tâm gọi rằng tâm, không phải pháp gọi rằng pháp.
- Xoay vần phát sanh và sanh lực phát huy, huân tập thành ra nghiệp báo; đồng nghiệp thì cảm với nhau, nhân đó, lại cảm ra các nghiệp diệt nhau, sanh nhau, do đó, mới có điên đảo về chúng sanh.
- A Nan, thế nào gọi là điên đảo về thế giới?
- Do có cái sở hữu đó, nên từng phần, từng đoạn giả dối sanh ra, vì thế, mà không gian thành lập; do phi nhân làm nhân, không có năng trụ, sở trụ, nên dời đổi mãi, không có năng trụ, sở trụ, nên dời đổi mãi, không an trụ, vì thế, mà thời gian thành lập. Ba đời bốn phương, hòa hợp can thiệp cùng nhau, chúng sanh biến hóa thành 12 loài.
- Vậy nên trong thế giới, nhân động có tiếng, nhân tiếng có sắc, nhân sắc có hương, nhân hương có xúc, nhân xúc có vị, nhân vị biết pháp, sáu vọng tưởng càn loạn thành ra nghiệp tánh, do đó, 12 cách đối hiện xoay vần mãi mãi.
- Vậy nên trong thế gian, những thanh, hương, vị, xúc biến đổi cùng tột, đến 12 lần xoay trở lại.
- Dựa trên những tướng điên đảo, xoay vần đó, nên trong thế giới có những loài noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, hoặc phi hữu sắc, hoặc phi vô sắc, hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng.
- A Nan, nhân trong thế giới có hư vọng luân hồi, điên đảo về động, nên hòa hợp với khí, thành ra 84000 loạn tưởng bay lặn, vì vậy, nên có mầm trứng trôi lăn trong cõi nước; cá, chim, rùa, rắn, các loài đầy nhẩy.
- Nhân trong thế giới có tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về dục, nên hòa hợp với tư, thành ra 84000 loạn tưởng ngang dọc; vì vậy, nên có bọc thai trôi lăn trong cõi nước; người, súc, rồng, tiên, các loài đầy nhẩy.
- Nhân trong thế giới có chấp trước luân hồi, điên đảo về thú, nên hòa hợp với noãn, thành ra 84000 loạn tưởng nghiêng ngửa vì vậy, nên có tế thi thấp sanh trôi lăn trong cõi nước; nhung nhúc, quậy động, các loài đầy nhẩy.
- Nhân trong thế giới có biến dịch luân hồi, điên đảo về giả, nên hòa hợp với xúc, thành ra 84000 loạn tưởng mới cũ; vì vậy, nên có yết nam hóa sanh trôi lăn trong cõi nước; chuyển thoái, phi hành, các loài đầy nhẩy.
- Nhân trong thế giới có lưu ngại luân hồi, điên đảo về chướng, nên hòa hợp với trước, thành ra 84000 loạn tưởng tinh diệu; vì vậy, nên có yết nam sắc tướng trôi lăn trong cõi nước; hưu cửu, tinh minh, các loài đầy nhẩy.
- Nhân trong thế giới có tiêu tán luân hồi, điên đảo về hoặc, nên hòa hợp với ám, thành ra 84000 loạn tưởng thầm ẩn, vì vậy, nên có yết nam vô sắc trôi lăn trong cõi nước; không tán tiêu trầm, các loại đầy nhẩy.
- Nhân trong thế giới có võng tượng luân hồi, điên đảo về ảnh, nên hòa hợp với ức, thành ra 84000 loạn tưởng tiềm kết; vì vậy, nên có yết nam hữu tưởng trôi lăn trong cõi nước; thần quỷ tinh linh, các loài đầy nhẩy.
- Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si, nên hòa hợp với ngoan, thành ra 84000 loạn tưởng khô cảo; vì vậy, nên có yết nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước; tinh thần hóa làm đất, cây, vàng, đá, các loài đầy nhẩy.
- Nhân trong thế giới có tương đãi luân hồi, điên đảo về ngụy, nên hòa hợp với nhiễm, thành ra 84000 loạn tưởng nhân y; vì vậy, nên có yết nam, không phải có sắc mà có sắc, trôi lăn trong cõi nước; những giống thủy mẫu, dùng tôm làm mắt, các loài đầy nhẩy.
- Nhân trong thế giới có tương đẫn luân hồi, điên đảo về tánh, nên hòa hợp với chú, thành ra 84000 loạn tưởng hô triệu; vì vậy, nên có yết nam, không phải vô sắc mà vô sắc, trôi lăn trong cõi nước, chú trớ, yếm sanh, các loài đầy nhẩy.
- Nhân trong thế giới có hợp vọng luân hồi, điên đảo về võng, nên hòa hợp với dị, thành ra 84000 loạn tưởng hồi hỗ; vì vậy, nên có yết nam, không phải có tưởng mà có tưởng, trôi lăn trong cõi nước; những giống tò vò, mượn chất khác thành cái thân của mình, các loài đầy nhẩy.
- Nhân trong thế giới có oán hại luân hồi, điên đảo về sát, nên hòa hợp với quái, thành ra 84000 tư tưởng ăn thịt cha mẹ; vì vậy, nên có yết nam, không phải vô tưởng mà vô tưởng, trôi lăn trong cõi nước; như con thổ kiêu, ấp khối đất làm con, và chim phá kính; ấp quả cây độc làm con, con lớn lên, thì cha mẹ đều bị chúng ăn thịt, các loài đầy nhẩy.
- Ấy gọi là mười hai chủng loại chúng sanh.
NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT