Skip to content

Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 4: Thất Đại Dung Nhau Không Ngăn Ngại – Tánh Nghe Thường Hằng

大佛頂首楞嚴經

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh – Tập 19 – Số 945 (Mật Giáo Bộ)
Surangama Sutra – 大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經
Đại Phật Đỉnh
Như Lai Mật Nhân
Tu Chứng Liễu Nghĩa
Chư Bồ Tát Vạn Hạnh
Thủ Lăng Nghiêm Kinh
Ngài Bồ tát Long Thụ (thế kỷ II) thỉnh từ cung rồng Ta Kiệt La
Nước Trung Hoa triều Đại Đường (618~907) đời Trung Tông (705~710)
Ngài Sa môn Bát Lạt Mật Đế (người Thiên Trúc) dịch chép ra Phạn văn, sau đó truyền kinh sang Trung Hoa và tổng dịch năm 705
Sa môn Di Già Thích Ca (?~?) Hán dịch từ Phạn văn
Sa môn Hoài Địch (?~?) chứng minh bản dịch
Cư sĩ Phòng Dung (tể tướng đời Võ Chu) bình chương, bút thọ, bảo trợ bản dịch
Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (1897~1969) Việt dịch từ Hán văn năm 1961
daithua.com biên tập năm 2021

Quyển 4:

Thất Đại Dung Nhau Không Ngăn Ngại
Tánh Nghe Thường Hằng


Khi bấy giờ, ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo bên phải, đầu gối bên phải chấm đất, chấp tay cung kính mà bạch Phật rằng:

  • Đức Thế Tôn có oai đức lớn, khéo vì chúng sanh diễn bày đệ nhất nghĩa đế của Như Lai. 
  • Đức Thế Tôn thường cho rằng trong những người thuyết pháp, tôi là bậc nhất, song nay tôi nghe pháp âm nhiệm mầu của Như Lai, cũng như người điếc, cách xa trăm bước, nghe tiếng muỗi mạt, vốn đã không thấy, huống nữa lại nghe. Tuy Phật chỉ rõ, khiến cho tôi trừ được lầm lạc, nhưng tôi chưa rõ chỗ rốt ráo, không còn nghi hoặc của nghĩa ấy.
  • Bạch Thế Tôn, như bọn ông A Nan, tuy được khai ngộ, nhưng chưa trừ hết tập khí hữu lậu, còn bọn chúng tôi là những người đã lên đến bậc vô lậu trong hội nầy, thì tuy đã hết các lậu, nhưng nay nghe pháp âm của Như Lai vừa dạy, còn mắc phải những điều nghi hối.

  • Bạch Thế Tôn, nếu như hết thảy các thứ Căn, Trần, Ấm, Xứ, Giới,… trong thế gian, đều là tánh thanh tịnh bản nhiên Như Lai tạng, thì làm sao bỗng nhiên lại sanh ra các tướng hữu vi như núi, sông, đất liền, thứ lớp dời đổi, trước sau quanh lộn.
  • Lại đức Như Lai nói bốn món đại: địa, thủy, hỏa, phong, bản tánh viên mãn dung hòa, cùng khắp Pháp giới, vẳng lặng thường trụ. 
  • Bạch Thế Tôn, nếu tánh Địa đại cùng khắp, sao lại dung được Thủy đại; nếu tánh Thủy đại cùng khắp thì Hỏa đại không thể phát sanh; làm sao lại phát minh hai tánh Thủy đại và Hỏa đại đều cùng khắp hư không, không diệt lẫn nhau? 
  • Bạch Thế Tôn, tánh Địa đại là ngăn ngại, tánh hư không là rỗng suốt, làm sao hai đại ấy lại đều cùng khắp Pháp giới. Tôi nay không biết nghĩa ấy do đâu, xin Phật phát lòng đại từ, vén mây mê lầm cho tôi và trong đại chúng. 

Ông Mãn Từ Tử nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, kính mong lời dạy từ bi vô thượng của đức Như Lai.


Khi bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo ông Phú Lâu Na và các vị A la hán lậu tận Vô học trong hội rằng:

  • Ngày nay Như Lai khắp vì trong hội nầy chỉ bày tánh chân thắng nghĩa trong thắng nghĩa, khiến cho ở trong hội nầy, những hàng định tánh Thanh Văn và hết thảy các bậc A la hán, chưa được hai phép nhân không pháp không, phát tâm hướng về thượng thừa, đều được chỗ tu hành chân chính, thiết thực không xao động của cảnh giới tịch diệt nhất thừa. 
  • Ông hãy nghe kỹ, tôi sẽ vì ông mà nói.

Các ông Phú Lâu Na kính vâng pháp âm của Phật, lẳng lặng vâng nghe.


Phật dạy:

  • Ông Phú Lâu Na, như ông vừa nói: Đã là bản nhiên thanh tịnh, làm sao bỗng nhiên lại sanh ra có núi sông, đất liền. Vậy ông không thường nghe Như Lai chỉ dạy: Tánh giác là diệu minh, bản giác là minh diệu, hay sao?

Ông Phú Lâu Na bạch:

  • Thưa Thế Tôn, vâng, tôi thường nghe Phật chỉ dạy nghĩa ấy.

Phật bảo:

  • Ông bảo cái giác là minh, lại là vì bản tánh nó là minh, nên gọi nó là giác, hay là vì giác được cái không minh, mà gọi là minh giác?

Ông Phú Lâu Na bạch:

  • Nếu cái không minh đó mà gọi là giác, thì nó không minh được cái gì.

Phật dạy:

  • Nếu không có sở minh là không có minh giác, thì có sở không phải là giác, mà không sở, lại không phải là minh; và không minh, thì lại không phải là giác tánh trạm minh. 
  • Vậy tánh giác chắc là minh, do vọng tưởng mà làm ra có minh giác. Giác không có gì là sở minh, nhân có minh mà lập ra thành sở; đã giả dối lập ra có sở, mới sanh ra cái năng hư vọng của các ông.

  • Trong tánh không đồng, không khác, nổi dậy thành ra có khác; khác với cái khác kia, thì nhân cái khác đó, mà lập thành cái đồng. 
  • Phát minh cái đồng, cái khác rồi, thì nhân đó, mà lập ra cái không đồng, không khác. 
  • Rối loạn như vậy, đối dãi với nhau sanh ra lao lự; lao lự mãi phát ra trần tướng, tự vẩn đục lẫn nhau; do đó, đưa đến những trần lao phiền não. 
  • Nổi lên thì thành thế giới, lặng xuống thì thành hư không; hư không là đồng, thế giới là khác; cái không đồng, không khác kia, thật là pháp hữu vi.

  • Cái giác là sáng suốt, cái hư không thì không hay biết, hai cái đối đãi với nhau, thành có lay động, cho nên có phong luân nắm giữ thế giới. 
  • Nhân cái hư không, mà sanh ra có lay động, phát minh tánh cứng, thì thành có ngăn ngại; các loại kim bảo đều do minh giác lập ra tánh cứng, cho nên có kim luân nắm giữ cõi nước. 
  • Biết cái cứng, thì thành có kim bảo, rõ cái lay động, thì Phong đại phát ra; Phong đại và kim bảo cọ xát nhau, cho nên có Hỏa đại làm tánh biến hóa. 
  • Ngọn lửa xông lên, kim bảo sanh ra tánh ướt, cho nên có thủy luân trùm khắp các cõi mười phương
  • Lửa bốc lên, nước sa xuống, giao nhau phát hiện, mà lập thành tánh cứng; chỗ ướt là bể lớn, chỗ khô là gò nổi; do cái nghĩa ấy, trong bể lớn kia, hơi nóng thường bốc lên; trong gò nổi kia, sông ngòi thường chảy xuống. 
  • Thế nước kém thế lửa, thì kết thành núi cao, vậy nên đá núi, đập thì có tia lửa, nấu thì chảy ra nước. 
  • Thế đất kém thế nước, rút ra thành cỏ cây, vậy nên rừng rú bị đốt thì thành đất, vắt ra thì có nước.
  • Vọng tưởng giao xen phát sanh, xoay vần làm chủng tử cho nhau; do nhân duyên ấy mà thế giới tiếp tục.
  • Lại nữa, Phú Lâu Na, vọng tưởng chẳng phải gì khác, do tánh giác minh hóa ra lầm lỗi; cái sở minh hư vọng đã lập, thì phạm vi của cái năng minh không vượt khỏi được. Do nhân duyên ấy, nghe không ra ngoài tiếng, thấy không vượt khỏi sắc, sáu cái vọng: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đã thành lập, thì do đó, chia ra có thấy, nghe, hay, biết.
  • Đồng nghiệp ràng buộc lẫn nhau mà hợp, mà ly, mà thành, mà hóa. Cái thấy phát minh, thì các sắc phát ra; nhận rõ nơi sự thấy, thì thành có tư tưởng; rồi ý kiến khác nhau, thì thành ra ghét, tưởng niệm đồng nhau, thì thành ra yêu. 
  • Lan cái yêu ra, thành hạt giống, thu nạp tưởng niệm, thành ra cái thai, giao xen phát sanh, hấp dẫn bọn đồng nghiệp, nên có nhân duyên sanh ra yết la lam, át bồ đàm,… 
  • Thai sanh, noãn sanh, thấp sanh hay hóa sanh là tùy phần sở ưng: Noãn chỉ do tưởng niệm mà sanh, thai thì nhân ái tình mà có, thấp sanh thì cơ cảm mà hợp lại, còn hóa sanh thì phân ly mà ứng hiện. Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly, thay đổi lẫn nhau, nên các loài chịu nghiệp báo cũng theo đó mà lên xuống; do nhân duyên ấy, chúng sanh tiếp tục.
  • Phú Lâu Na, tư tưởng thương yêu ràng buộc lẫn nhau, yêu mãi không rời, thì những cha mẹ con cháu trong thế gian sanh nhau không ngớt, bọn nầy thì lấy dục tham làm gốc. Lòng tham, lòng yêu giúp nhau tăng trưởng, tham mãi không thôi, thì các loài thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau; bọn nầy thì lấy sát tham làm gốc. Lấy thân người ăn con dê, dê chết làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến mười loài chúng sanh chết sốngsống chết, ăn nuốt lẫn nhau, nghiệp dữ cùng sanh ra tột đời vị lai, bọn nầy thì lấy đạo tham làm gốc.
  • Người nầy mắc nợ thân mệnh người kia, người kia trả nợ cũ cho người nầy; do nhân duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong đường sống chết. Người nầy yêu cái tâm người kia, người kia ưa cái sắc người nầy, do nhân duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong vòng ràng buộc. Duy ba món sát, đạo, dâm làm gốc và vì nhân duyên đó, nghiệp quả tiếp tục.
  • Phú Lâu Na, ba thứ tiếp tục điên đảo ấy, đều do tánh sáng suốt rõ biết của giác minh, nhân rõ biết phát ra có tướng, theo vọng tưởng mà Kiến chấp sanh ra, các tướng hữu vi núi sông, đất liền thứ lớp dời đổi, đều nhân cái hư vọng đó, mà xoay vần sau trước.

Ông Phú Lâu Na bạch:

  • Nếu cái diệu giác đó, bản tánh là diệu minh, cùng với tâm Như Lai, không thêm không bớt, mà không cớ gì bỗng nhiên lại sanh ra các tướng hữu vi núi sông, đất liền.
  • Vậy Như Lai hiện nay đã chứng được bản giác diệu minh, không có phân biệt, thì đến lúc nào lại sanh ra núi sông, đất liền và các tập lậu hữu vi?

Phật bảo ông Phú Lâu Na:

  • Ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm phương Nam làm phương Bắc, thì cái mê ấy, lại là nhân mê mà có hay nhân ngộ mà ra?

Ông Phú Lâu Na bạch:

  • Người mê như vậy, cũng không nhân mê, cũng không nhân ngộ. Vì sao? 
  • Mê, vốn không có gốc, làm sao lại nhân mê? 
  • Còn ngộ, không phải cái sanh ra mê, làm sao lại nhân ngộ?

Phật dạy:

  • Người mê kia, chính trong lúc mê, bỗng có người ngộ chỉ bày cho được ngộ. Phú Lâu Na, ý ông nghĩ thế nào? 
  • Người ấy giải trừ được cái mê đi, thì đối với xóm làng đó, còn có sanh mê nữa không?

Ông Phú Lâu Na bạch:

  • Thưa Thế Tôn, không.

Phật dạy:

  • Phú Lâu Na, Như Lai mười phương thì cũng như vậy. Cái mê đó không có gốc, tánh nó rốt ráo là rỗng không; xưa vốn không mê, chỉ hình như có mê, có giác; giác được cái mê, thì cái mê diệt và giác, không sanh ra mê.
  • Cũng như người lòa thấy hoa đốm giữa hư không, nếu trừ được bệnh lòa, thì hoa đốm nơi hư không diệt mất. Bỗng có người ngu, ở chỗ hư không mà hoa đốm kia đã diệt rồi, lại mong đợi hoa đốm sanh lại. Ông xét người ấy, là ngu hay là trí huệ?

Ông Phú Lâu Na bạch:

  • Hư không vốn không có hoa đốm, vì hư vọng mà thấy có sanh diệt; thấy hoa đốm diệt mất nơi hư không đã là điên đảo rồi; lại còn muốn bảo nó sanh lại, thì thật là điên dại; làm sao còn gọi người điên như vậy, là ngu hay là trí huệ.

Phật dạy:

  • Ông hiểu như vậy, làm sao còn hỏi tánh giác diệu minh, không có phân biệt của chư Phật Như Lai, lúc nào lại sanh ra núi sông, đất liền.
  • Lại như quặng vàng lộn với vàng ròng, khi vàng đã luyện thành ròng rồi, thì không xen lộn được nữa; cũng như cây đã đốt ra tro, thì không thành cây được nữa; Bồ đề Niết bàn chư Phật Như Lai thì cũng như vậy.

  • Phú Lâu Na, ông lại hỏi về địa, thủy, hỏa, phong, bản tánh viên mãn dung hòa, cùng khắp Pháp giới, nghi sao tánh nước, tánh lửa lại không lấn nhau, diệt nhau và nêu ra hư không và Địa đại đều cùng khắp Pháp giới, lẽ ra không dung được nhau.
  • Phú Lâu Na, ví như hư không, bản thể không phải các tướng, mà không ngăn cản các tướng phát huy. Vì sao? 
  • Phú Lâu Na, nơi hư không kia, mặt trời soi thì sáng, mây kéo thì tối, gió lay động, trời tạnh thì trong, hơi đọng, thì dục, bụi nổi thì mù, nước đứng thì ánh. Ý ông nghĩ thế nào? 
  • Các tướng hữu vi khác nhau như vậy, nhân các cái kia mà sanh, hay nhân hư không mà có. 
  • Phú Lâu Na, nếu như do các cái kia sanh ra, thì khi mặt trời soi, đã là mặt trời sáng, mười phương thế giới đều thành sắc của mặt trời, làm sao giữa hư không, lại còn thấy mặt trời tròn. 
  • Nếu là hư không sáng, thì hư không phải tự soi lấy, làm sao lúc giữa đêm mây mù, lại không sanh ra sáng chói. 
  • Vậy nên biết rằng cái sáng đó, không phải mặt trời, không phải hư không và cũng không ra ngoài hư không và mặt trời
  • Xét cái tướng vốn là vọng, không thể chỉ bày, cũng như muốn hoa đốm hư không kết thành quả hư không, làm sao còn gạn hỏi cái nghĩa lấn diệt lẫn nhau? 
  • Xét cái tánh, vốn là chân, chỉ là tánh giác diệu minh, tánh giác diệu minh, vốn không phải là nước hay là lửa, làm sao còn hỏi về nghĩa không dung được nhau?
  • Bản tánh diệu minh chân thật thì cũng như vậy. Ông phát minh cái hư không, thì có hư không hiện ra; địa, thủy, hỏa, phong, mỗi mỗi phát minh, thì mỗi mỗi hiện ra; nếu cùng phát minh, thì cùng hiện ra.
  • Thế nào là cùng hiện ra? Phú Lâu Na, như trong một chỗ có nước, hiện ra bóng mặt trời, hai người đồng xem mặt trời trong nước; rồi một người đi phương Đông, một người đi phương Tây, thì hai bên đều có mặt trời theo mình cùng đi, một cái về phương Đông, một cái về phương Tây, không có chuẩn đích nhất định. Không nên gạn hỏi rằng, mặt trời đó là một, sao lại mỗi cái đi theo mỗi người? Các mặt trời đã thành hai, làm sao trước kia chỉ hiện ra có một? Hư vọng quanh lộn như thế, không thể lấy gì làm bằng cứ.

  • Phú Lâu Na, ông đem cái sắc, cái không, mà lấn cướp lẫn nhau nơi Như Lai tạng, thì Như Lai tạng theo ông làm sắc, làm không, cùng khắp Pháp giới; vậy nên trong ấy, gió thổi thì động, hư không thì lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối: Chúng sanh mê lầm, trái với giác tánh, hợp với trần tướng, cho nên phát ra trần lao, có các tướng thế gian.

  • Tôi lấy tánh diệu minh, không diệt không sanh, hợp với Như Lai tạng, thì Như Lai tạng chỉ là tánh giác diệu minh, soi khắp Pháp giới; vậy nên trong ấy, một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện ra lớn, trong lớn hiện ra nhỏ, đạo trường bất động cùng khắp thế giới mười phương, thân trùm cả hư không vô tận mười phương, nơi đầu một mãy lông, hiện ra cõi Bảo Vương, ngồi trong vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn; diệt trần tướng, hợp giác tánh, nên phát ra tánh giác chân như nhiệm mầu sáng suốt.

  • Nhưng Như Lai tạng bản tánh diệu viên, không phải là tâm, là không, là địa, là thủy, là phong, là hỏa; không phải là nhãn, là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; không phải là sắc, là thanh, hương, vị, xúc, pháp; không phải là Nhãn thức giới, cho đến không phải là Ý thức giới; không phải là minh, là vô minh, là hết minh, là hết vô minh, cho đến không phải là lão, là tử, là hết lão tử; không phải là khổ, là tập, là diệt, là đạo; không phải là trí, là đắc; không phải là bố thí, là trì giới, là tinh tấn, là nhẫn nhục, là thiền định, là trí huệ, là Ba la mật đa, cho đến cũng không phải là Như Lai, là Ứng Cúng, là Chánh Biến Tri; không phải là Đại Niết bàn, là đức Thường, đức Lạc, đức Ngã, đức Tịnh, vì cái đó, đều không là các pháp thế gian và xuất thế gian vậy.

  • Tức cái bản tánh minh diệu Như Lai tạng, cũng tức là tâm, là không, là địa, là thủy, là phong, là hỏa; tức là nhãn, là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; tức là sắc, là thanh, hương, vị, xúc, pháp; tức là Nhãn thức giới, cho đến là Ý thức giới; tức là minh, là vô minh, là hết minh, là hết vô minh, cho đến tức là lão, là tử, là hết lão tử; tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo; tức là trí, là đắc; tức là bố thí, là trì giới, là tinh tấn, là nhẫn nhục, là thiền định, là trí huệ, là Ba la mật đa, cho đến tức là Như Lai, là Ứng Cúng, là Chánh Biến Tri; tức là Đại Niết bàn, là đức Thường, đức Lạc, đức Ngã, đức Tịnh; do cái đó, tức là các pháp thế gian và xuất thế gian vậy.

  • Tức cái tánh giác diệu minh Như Lai tạng, rời cả các nghĩa tức, phi và cũng là tức, là phi; làm sao chúng sanh ba cõi thế gian và các hàng Thanh văn, Duyên giác xuất thế gian, lấy cái tâm hay biết sự vật, mà đo lường được Vô thượng Bồ đề của Như Lai, dùng tiếng nói thế gian, mà vào được tri kiến của Phật. 
  • Ví như, những cây đàn cầm, sắt, không hầu, tỳ bà, tuy có tiếng hay, nhưng nếu không có ngón tay hay, thì rốt cuộc cũng không phát ra được. Ông cùng chúng sanh thì cũng như vậy. Tâm tánh chân thật, mỗi người đều đầy đủ, nhưng khi tôi ấn ngón tay, thì hải ấn phát ra hào quang, còn các ông tạm móng tâm lên, thì trần lao đã nổi, do vì không siêng năng cầu đạo vô thượng giác, ưa nhớ Tiểu thừa, được một ít đã cho là đủ.

Ông Phú Lâu Na bạch:

  • Chân tâm viên giác diệu minh của tôi và của Như Lai, đều viên mãn không hai, mà tôi, trước kia mắc vọng tưởng vô thủy, ở lâu trong luân hồi, nay được thánh thừa, còn chưa rốt ráo; Thế Tôn, thì khắp tất cả các vọng đều diệt trọn, chỉ có diệu dụng tánh chân thường. 
  • Xin hỏi đức Như Lai, hết thảy chúng sanh, vì nhân gì mà có vọng, tự che tánh diệu minh, mà chịu chìm đắm như vậy?

Phật bảo ông Phú Lâu Na:

  • Ông tuy trừ được lòng nghi, nhưng còn những điều lầm chưa dứt hết. Nay tôi lại đem những việc hiện tiền thế gian mà hỏi ông. Há ông không nghe trong thành Thất La Phiệt, có anh Diễn Nhã Đạt Đa, buổi mai lấy gương soi mặt, bỗng nhiên ưa cái đầu trong gương, lông mày, con mắt có thể thấy được, rồi giận trách cái đầu mình, sao lại không thấy mặt mày, cho là giống yêu quái, rồi không cớ gì phát điên bỏ chạy. 
  • Ý ông nghĩ thế nào, người đó vì nguyên nhân gì, vô cớ phát điên bỏ chạy?

Ông Phú Lâu Na bạch:

  • Tâm người ấy điên, chứ không có cớ gì khác.

Phật dạy:

  • Tánh diệu giác viên mãn sáng suốt, bản lai là diệu minh cùng khắp; đã gọi là vọng, thì làm sao có nhân, nếu có nguyên nhân, thì sao gọi là vọng? 
  • Chỉ tự các vọng tưởng xoay vần làm nguyên nhân cho nhau, theo cái mê, chứa cái mê, trải qua kiếp số như vi trần; tuy Phật phát minh, còn không biết trở về
  • Nguyên nhân cái mê như vậy, là nhân mê tự có, biết cái mê không có nhân, thì cái vọng không chỗ nương tựa, còn không có sanh, thì muốn đem cái gì mà làm cái diệt. 
  • Người được đạo Bồ đề như người tỉnh giấc kể chuyện trong chiêm bao; tâm dầu rõ ràng, nhưng không thể có nhân duyên gì lấy được những vật trong chiêm bao; huống nữa, cái mê lại không có nhân, vốn không có gì cả. 
  • Như anh Diễn Nhã Đạt Đa trong thành kia, đâu có nhân duyên, mà tự sợ đầu mình bỏ chạy, bỗng nhiên hết điên, thì cái đầu đâu phải từ ngoài đưa tới; dầu chưa hết điên, cái đầu cũng không hề mất. Phú Lâu Na, tánh của cái vọng là như vậy, làm sao còn có nguyên nhân được.

  • Ông chỉ không theo phân biệt ba thứ tiếp tục nơi thế gian, nghiệp quả, chúng sanh, thì ba duyên đã đoạn rồi, ba nhân không sanh ra nữa, và tánh điên của anh Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm ông tự hết. 
  • Hết, tức là tâm tánh Bồ đề trong sạch sáng suốt, bản lai cùng khắp Pháp giới, không do ai đưa lại, nào cần gì phải tu chứng nhọc nhằn vất vả.
  • Ví như có người, ở nơi áo mình, buộc một hạt châu như ý, mà không hay biết, nên phải xin ăn rong ruổi phương xa, nghèo nàn rách rưới; tuy người ấy thật nghèo nàn, nhưng hạt châu không hề bị mất; bỗng nhiên có người khôn, chỉ hạt châu ra cho, thì người ấy muốn gì được nấy, thành giàu có lớn, rồi mới ngộ được hạt châu quý hóa ấy, không phải do ở ngoài đưa tới.

Khi bấy giờ ông A Nan, ở trong đại chúng, đỉnh lễ chân Phậtđứng dậy bạch Phật:

  • Đức Thế Tôn hiện nói về các nghiệp sát, đạo, dâm. Về ba duyên đoạn rồi, thì ba nhân không sanh và tánh điên anh Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm tự hết; hết, tức là Bồ đề, không do người khác đưa tới; như thế, rõ ràng là nhân duyên rồi, làm sao đức Như Lai lại bỏ nghĩa nhân duyên? 
  • Chính tôi, do nhân duyên, mà tâm được khai ngộ.
  • Bạch Thế Tôn, nghĩa ấy đâu chỉ đối với hàng Thanh văn Hữu học, ít tuổi như chúng tôi, mà hiện nay, trong hội nầy, ông Ma Ha Mục Kiền Liên, ông Xá Lợi Phất, ông Tu Bồ Đề,… cũng từ ông lão Phạm chí nghe lý nhân duyên của Phật, mà phát tâm khai ngộ, được thành quả vô lậu. 
  • Nay Phật dạy rằng Bồ đề không do nhân duyên, thì các thuyết tự nhiên của bọn Câu xá ly, thành Vương Xá, lại thành đệ nhất nghĩa. Xin Phật rủ lòng đại bi, khai phá chỗ mê lầm cho chúng tôi.

Phật bảo ông A Nan:

  • Tức như anh Diễn Nhã Đạt Đa trong thành, nếu diệt trừ được nhân duyên tánh điên, thì tánh không điên tự nhiên hiện ra; các lý nhân duyên, tự nhiên, cuối cùng chỉ như vậy.

  • A Nan, như cái đầu anh Diễn Nhã Đạt Đa vốn là tự nhiên, nó đã tự nhiên như thế, thì có lúc nào lại không tự nhiên, vậy vì nhân duyên gì, mà sợ cái đầu, phát điên bỏ chạy? 
  • Nếu cái đầu tự nhiên, vì nhân duyên mà điên, thì sao không tự nhiên, vì nhân duyên mà mất đi?
  • Cái đầu vốn không mất, điên sợ giả dối phát ra, chứ nào có thay đổi gì, mà phải nhờ đến nhân duyên. 
  • Nếu tánh điên vốn là tự nhiên và vốn có sẵn tánh điên sợ, thì khi chưa điên, cái điên núp vào chỗ nào? 
  • Nếu tánh không điên là tự nhiên, thì cái đầu vẫn không việc gì, sao lại phát điên bỏ chạy? 
  • Nếu ngộ được cái đầu sẵn có, biết mình vì phát điên mà bỏ chạy, thì nhân duyên và tự nhiên đều là hý luận.

  • Vậy nên tôi nói: Ba duyên đoạn trừ rồi, tức là tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề sanh, tâm sanh diệt diệt, đó chỉ là sanh diệt. 
  • Diệt và sanh đều hết, thì gọi là vô công dụng đạo. 
  • Nếu có tự nhiên, như vậy là phát minh tâm tự nhiên sanh, tâm sanh diệt diệt, thế cũng là sanh diệt và lấy cái không sanh diệt, gọi là tự nhiên. 
  • Cũng như, trong thế gian các tướng hòa lẫn thành ra một thể, gọi là tánh hòa hợp; cái không phải hòa hợp, thì gọi là tánh bản nhiên. 
  • Bản nhiên không phải bản nhiên, hòa hợp không phải hòa hợp, hòa hợp và bản nhiên đều rời bỏ, rời bỏ và không rời bỏ đều phi, câu nói nầy, mới gọi là pháp không hý luận.
  • Bồ đề Niết bàn còn ở xa xôi, nếu ông không trải qua nhiều kiếp siêng năng tu chứng, thì tuy ghi nhớ diệu lý thanh tịnh mười hai bộ kinh của thập phương Như Lai, như cát sông Hằng, cũng chỉ càng thêm hý luận. 
  • Ông tuy nói lý nhân duyên, tự nhiên chắc chắn rõ ràng, người đời gọi ông là đa văn bậc nhất. Với cái huân tập đa văn nhiều kiếp đó, ông không thoát khỏi được nạn Ma Đăng Già, phải đợi thần chú Phật đỉnh của tôi, làm cho lửa dâm trong tâm nàng Ma Đăng Già hết đi và nàng được quả A na hàm, ở trong Phật pháp thành rừng tinh tấn, sông ái khô cạn, mới khiến cho ông được giải thoát. 
  • Vậy nên ông A Nan, tuy ông nhiều kiếp ghi nhớ những pháp bí mật diệu nghiêm của Như Lai, cũng không bằng một ngày tu nghiệp vô lậu, xa rời hai khổ ưa ghét thế gian. Như nàng Ma Đăng Già, trước kia là dâm nữ, do sức thần chú, tiêu diệt lòng ưa muốn, nay ở trong Phật pháp, gọi tên là Tánh Tỳ kheo ni, cùng với mẹ La Hầu La là Da Du Đà La, đồng ngộ nhân trước, biết đã trải qua nhiều đời, nhân vì tham ái mà khổ, một niệm huân tu pháp vô lậu thiện, thì người đã ra khỏi ràng buộc, người thì được Phật thọ ký, làm sao, ông còn tự dối mình, mắc míu mãi trong vòng nghe thấy.

Ông A Nan và cả đại chúng nghe lời Phật dạy, tiêu hết nghi hoặc, ngộ được thật tướng, thân và ý đều yên lành, được pháp chưa từng có. Rồi lại thương khóc, đỉnh lễ chân Phật, quỳ dài chấp tay mà bạch Phật rằng:

  • Đức vô thượng đại bi thanh tịnh Bảo Vương, khéo khai ngộ cho tâm chúng tôi, dùng các nhân duyên như thế, phương tiện dắt dìu những kẻ chìm đắm ra khỏi bể khổ. 
  • Bạch Thế Tôn, nay tôi tuy được vâng nghe pháp âm như vậy, nhận biết tâm tánh diệu minh Như Lai tạng cùng khắp thế giới mười phương, trùm chứa các cõi Phật bảo nghiêm thanh tịnh trong thập phương quốc độ; Như Lai lại trách tôi nghe nhiều mà vô dụng, không kịp thời tu tập. 
  • Nay tôi, giống như người lênh đênh xiêu bạt, bỗng nhiên gặp vị Thiên vương cho cái nhà tốt; tuy được nhà lớn, nhưng cốt yếu phải biết cửa mà vào; xin nguyện đức Như Lai không ngớt lòng đại bi, chỉ bày cho những kẻ mờ tối trong hội nầy, rời bỏ pháp Tiểu thừa và đều nhận được con đường phát tâm tu tập đi đến vô dư Niết bàn của Như Lai, khiến cho những hàng Hữu học biết cách uốn dẹp tâm phan duyên lâu đời, được pháp tổng trì, chứng nhập tri kiến của Phật. 

Ông A Nan nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, ở trong hội một lòng, mong đợi từ chỉ của Phật.

Khi bấy giờ, Đức Thế Tôn thương xót các hàng Thanh văn, Duyên giác trong hội, chưa được tự tại nơi tâm Bồ đề, và những chúng sanh phát Bồ đề tâm trong đời mạt pháp về sau, khi Phật đã diệt độ rồi, khai thị cho đường tu hành nhiệm mầu pháp vô thượng thừa, và chỉ dạy ông A Nan với cả đại chúng rằng:

  • Các ông quyết định phát tâm Bồ đề, đối với pháp Tam ma địa chư Phật Như Lai, không sanh mệt mỏi, thì trước hết, nên rõ hai nghĩa quyết định, trong lúc bắt đầu phát tâm tự giác.

  • Thế nào là hai nghĩa quyết định trong lúc mới phát tâm. A Nan, nghĩa thứ nhất là: Nếu các ông muốn rời bỏ phép Thanh văn, tu thừa Bồ tát, vào tri kiến của Phật, thì nên xét kỹ chỗ phát tâm trong lúc tu nhân với chỗ Giác ngộ trong lúc chứng quả, là đồng hay là khác nhau. 
  • A Nan, nếu trong lúc tu nhân, đem cái tâm sanh diệt làm cái nhân tu hành, đề cầu cho được cái quả bất sanh bất diệt của Phật thừa, thì thật không thể được. Do cái nghĩa đó, ông nên xét các pháp, có thể làm ra trong khí thế gian, đều phải thay đổi diệt mất. 
  • A Nan, ông xét các pháp, có thể làm ra trong thế gian, có cái gì là không hư nát, nhưng không bao giờ nghe hư không tan rã, vì sao? 
  • Vì hư không không phải là cái bị làm ra, do đó, trước sau không hề tan mất. Thì trong thân ông, tướng cứng là Địa đại, thấm ướt là Thủy đại, hơi ấm là Hỏa đại, lay động là Phong đại; do bốn cái ấy ràng buộc, mà chia cái tâm tánh diệu minh vẳng lặng, cùng khắp của ông, làm ra cái thấy, cái nghe, cái biết, cái xét, từ đầu đến cuối, tạo thành năm lớp ô trược.
  • Thế nào là trược? A Nan, ví như nước trong, bản nhiên là trong sạch, lại như những thứ bụi, đất, tro, cát, bản chất là ngăn ngại; hai bên bản nhiên thể chất khác nhau, không hợp nhau được. Có người thế gian lấy đất bụi kia, ném vào nước sạch, thì đất mất ngăn ngại, nước mất trong sạch, hình trạng đục vẩn, gọi đó là trược; năm lớp ô trược của ông cũng giống như vậy.

  • A Nan, ông thấy hư không khắp thập phương thế giới. Bên không, bên thấy, không tách rời nhau; có cái không mà không thật thể, có cái thấy mà không hay biết, hai bên xen lộn giả dối thành ra lớp thứ nhất, gọi là Kiếp trược.
  • Thân ông hiện ôm bốn món đại làm tự thể, che bít những sự thấy, nghe, hay, biết, thành bị ngăn ngại và trở lại làm cho các thứ địa, thủy, hỏa, phong, thành có hay biết; các điều đó xen lộn giả dối thành ra lớp thứ hai, gọi là Kiến trược.
  • Lại trong tâm ông, những sự nhớ biết học tập, phát ra tri kiến, hiện ra tướng Lục trần, thì những sự đó, rời tiền trần không có tướng, rời tri giác không có tánh, xen lộn giả dối thành ra lớp thứ ba, gọi là Phiền não trược.
  • Lại tâm ông ngày đêm sanh diệt không ngừng, tri kiến thì muốn lưu mãi ở thế gian, nhưng nghiệp báo xoay vần thì lại thường dời đổi cõi nầy cõi khác, những điều đó xen lộn giả dối thành ra lớp thứ tư, gọi là Chúng sanh trược.
  • Cái thấy, cái nghe của ông, bản tánh vốn không khác nhau, do các trần cách trở, mà không duyên cớ gì, lại sanh ra khác nhau; trong tánh thì vẫn biết nhau, nhưng trong dụng thì trái ngược nhau, cái đồng và cái khác đã mất hẳn chuẩn đích, xen lộn giả dối thành ra lớp thứ năm, gọi là Mệnh trược.

  • A Nan, nay ông muốn cho cái sự thấy, nghe, hay, biết, xa xa hợp với bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai, thì trước hết, phải lựa bỏ cỗi gốc sống chết, nương theo cái không sanh diệt mà thành tựu tánh yên lặng cùng khắp. 
  • Dùng cái yên lặng mà xoay các thứ sanh diệt hư vọng trở về nơi bản giác, được tánh không sanh diệt của bản giác làm cái tâm tu nhân, thì về sau mới viên thành chổ tu chứng của quả vị. 
  • Như lắng nước đục đựng trong một cái đồ để yênđể yên mãi không lay động, thì đất cát tự chìm xuống và nước trong hiện ra, thế gọi là bắt đầu uốn dẹp các khách trần phiền não; gạn bùn hết sạch, chỉ còn nước trong, thì gọi là dứt hẳn căn bản vô minh; tướng sáng suốt đã tinh thuần, thì tất cả các điều biến hiện đều không gây ra phiền não và hợp với đức mầu thanh tịnh của Niết bàn.

  • Nghĩa thứ hai là các ông quyết muốn phát tâm Bồ đề, nơi thừa Bồ tát, sanh lòng đại dũng mãnh, quyết định rời bỏ các tướng hữu vi, thì nên xét rõ cỗi gốc phiền não, những cái vô minh phát nghiệp và nhuận sanh vô thủy đó, là ai làm, ai chịu?
  • A Nan, ông tu đạo Bồ đề, nếu không suy xét cỗi gốc phiền não, thì không thể biết những căn trần phiền não, thì không thể biết những căn trần hư vọng, nó điên đảo ở chỗ nào; chỗ điên đảo còn không biết, thì làm sao uốn dẹp được nó và chứng được quả vị Như Lai.
  • A Nan, ông hãy xem người thế gian cởi nút, hễ không thấy chỗ thắt nút, thì không biết cởi, chứ không hề nghe hư không bị phá tan.
  • Vì sao? Vì hư không không có hình tướng, không thắt, không cởi vậy. Thì như ông hiện nay, sáu thứ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý làm mai mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà; do đó, từ vô thủy, thế giới chúng sanh sanh ra ràng buộc, không thể vượt khỏi thế gian sự vật.

  • A Nan, thế nào gọi là thế giới chúng sanh? Thế là dời đổi, giới là phương hướng. Nay ông nên biết những phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương Trên, phương Dưới là giới. Còn quá khứ, vị lai, hiện tại là thế. Phương hướng có mười, số lưu chuyển của thời gian có ba, hết thảy chúng sanh dệt cái vọng mà thành như vậy; nơi sự dời đổi trong thân, thế và giới gắn bó với nhau
  • Nhưng cái tánh của giới đó, tuy là mười phương, song có chỗ nhất định có thể chỉ rõ, thì thế gian chỉ nhận phương Đông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc; phương Trên, phương Dưới, thì không có vị trí rõ ràng; ở giữa cũng không có chỗ nhất định. 
  • Số bốn đã rõ rồi, nhân với số thế, thì ba lần bốn, bốn lần ba, xoay vần là số mười hai, nhân luôn ba lớp, một chục thành trăm, thành nghìn, thì tổng quát trước sau, ở trong Lục căn, mỗi mỗi có thể có đến 1200 công năng.
  • A Nan, trong Lục căn đó, ông lại xét định chỗ hơn, chỗ kém. Như Nhãn căn xem thấy, phía sau thì tối, phía trước thì sáng, phương trước toàn sáng, phương sau toàn tối, kể cả ngó qua bên phải bên trái, thì ba phần chỉ thấy được hai; tóm lại công năng của Nhãn căn không toàn vẹn, ba phần công năng còn thiếu một; vậy nên biết Nhãn căn chỉ có 800 công năng.
  • Như Nhĩ căn nghe khắp, mười phương không sót, động thì giống như có xa có gần, tĩnh thì không có bờ bến; vậy nên biết Nhĩ căn đầy đủ 1200 công năng.
  • Như Tỷ căn ngửi biết cả lúc thở rathở vào; chỉ có trong lúc thở rathở vào mà còn thiếu trong lúc hơi thở giao tiếp; xét nơi Tỷ căn, ba phần còn thiếu một; vậy nên biết Tỷ căn chỉ có 800 công năng.
  • Như Thiệt căn phô bày cùng tột trí thế gian và xuất thế gian; lời nói có chừng hạn, nhưng lý thì vô cùng vô tận; vậy nên biết Thiệt căn đầy đủ 1200 công năng.
  • Như thân căn biết Xúc trần, biết các cảm xúc trái và thuận; khi hợp lại thì biết, khi rời ra thì không biết, rời chỉ có một, hợp thì có hai; xét nơi thân căn, ba phần còn thiếu một; vậy nên biết thân căn chỉ có 800 công năng.
  • Như Ý căn thầm lặng dung nạp tất cả các pháp thế gian, xuất thế gian trong mười phương ba đời; dù thánh hay phàm, không pháp nào không bao dung cùng tột bờ bến; vậy nên biết Ý căn đầy đủ 1200 công năng.
  • A Nan, nay ông muốn ngược dòng sanh tử, xoay về tột gốc lưu chuyển, đến chỗ không sanh diệt, thì nên xét trong Lục căn hiện đương thụ dụng, cái gì là hợp, cái gì là ly, cái gì là sâu, cái gì là nông, cái gì là viên thông, cái gì là không viên mãn. 
  • Nếu ngộ được căn tánh viên thông nơi đó, ngược lại dòng nghiệp dệt vọng vô thủy kia và theo được tánh viên thông, thì đối với sự tu hành nơi cái căn không viên thông, hiệu quả xấp bội, một ngày bằng một kiếp. 
  • Tôi nay đã chỉ rõ Lục căn viên minh, vốn có những số lượng công năng như thế; tùy ông lựa chọn nơi căn nào, có thể nhập đạo được, thì tôi sẽ phát minh, để cho ông được tăng tiến trên đường tu hành. thập phương Như Lai, nơi Thập bát giới, mỗi giới đều tu hành được viên mãn Vô thượng Bồ đề; trong các giới đó, cũng không có gì là hơn, là kém. 
  • Chỉ vì ông căn cơ thấp kém, chưa thể viên mãn trí huệ, tự tại trong ấy được, nên tôi bảo ông chỉ đi sâu vào một căn, đi sâu đến chỗ không còn vọng tưởng, thì cả Lục căn kia một thời đều thanh tịnh.

Ông A Nan bạch Phật rằng:

  • Thưa Thế Tôn, làm sao ngược dòng hư vọng, đi sâu vào một căn, lại có thể khiến cho Lục căn một thời đều thanh tịnh?

Phật bảo ông A Nan:

  • Ông nay đã được quả Tu đà hoàn, đã diệt được kiến hoặc của ba cõi thế gian chúng sanh, song còn chưa biết những tập khí hư vọng chứa nhóm trong căn từ vô thủy; các tập khí kia, phải nhân tu đạo rồi mới đoạn được, huống chi, trong đó còn có rất nhiều phân loại, số mục sanh trụ dị diệt.
  • Nay ông hãy xét Lục căn hiện tiền là một, hay là sáu. A Nan, nếu nói là một, thì lỗ tai sao không thấy, con mắt sao không nghe, đầu sao không đi, chân sao không nói; còn nếu Lục căn đó quyết định là sáu, thì như trong hội nầy, tôi chỉ dạy Pháp môn nhiệm mầu cho ông, trong Lục căn của ông, cái gì lĩnh thụ?

Ông A Nan bạch:

  • Tôi dùng lỗ tai nghe.

Phật dạy:

  • Lỗ tai ông tự nghe, nào dính gì đến thân với miệng, mà miệng ông thì hỏi nghĩa, thân ông thì đứng dậy kính vâng.
  • Vậy nên biết rằng chẳng phải một, mà cuối cùng thành sáu, chẳng phải sáu, mà cuối cùng thành một, rốt cuộc cái căn của ông, vốn không phải là một, hay là sáu. 
  • A Nan, ông nên biết cái căn ấy không phải một, không phải sáu; do từ vô thủy đắm chấp trái ngược, nên nơi tánh viên trạm, sanh ra có cái một, cái sáu. Nay ông được quả Tu đà hoàn, tuy đã tiêu được cái sáu, nhưng còn chưa quên cái một.
  • Như cái hư không, tham hợp với các khí mãnh; do hình trạng khí mãnh khác nhau, mà gọi là hư không khác nhau, đến khi trừ bỏ khí mãnh mà xem cái hư không, thì nói hư không là một; chứ cái hư không kia, làm sao lại vì ông mà thành đồng hay không đồng, huống nữa, lại gọi là một hay không phải một.
  • Sáu căn hay biết của ông thì cũng như vậy.
  • Do hai thứ sáng và tối, tỏ bày lẫn nhau, nơi tánh diệu viên, làm dính tánh yên lặng, phát ra cái thấy; cái thấy ánh ra thành sắc, kết cái sắc lại thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể con mắt như quả bồ đào; bốn trần của phù căn rong ruổi chạy theo sắc.
  • Do hai thứ động và tĩnh, đối chọi lẫn nhau, nơi tánh diệu viên, làm dính tánh yên lặng, phát ra cái nghe; cái nghe ánh ra thành tiếng, cuốn cái tiếng lại thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái tai như lá mới cuốn; bốn trần của phù căn rong ruổi chạy theo tiếng.
  • Do hai thứ thông và bịt, phát hiện lẫn nhau, nơi tánh diệu viên, làm dính tánh yên lặng, phát ra cái ngữi; cái ngửi ánh ra thành hương, thu nạp cái hương thành căn, gốc căn, thì gọi đó là tứ đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái mủi như hai móng tay rủ xuống; bốn trần của phù căn rong ruổi chạy theo hương.
  • Do hai thứ nhạt và có vị, tham chước lẫn nhau, nơi tánh diệu viên, làm dính tánh yên lặng, phát ra cái nếm; cái nếm ánh ra thành vị, thưởng thức cái vị thành, thưởng thức cái vị thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái lưỡi như mặt trăng mới khuyết; bốn trần của phù căn rong ruổi chạy theo vị.
  • Do hai thứ ly và hợp, so sánh lẫn nhau, nơi tánh diệu viên, làm dính tánh yên lặng, phát ra cái biết xúc; cái biết xúc ánh ra thành xúc, ôm nắm cái xúc thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái thân như dáng trống cơm, bốn trần của phù căn rong ruổi chạy theo xúc.
  • Do hai thứ sanh và diệt, tiếp tục lẩn nhau, nơi tánh diệu viên, làm dính tánh yên lặng, phát ra cái biết; cái biết ánh ra thành các pháp, tóm thu các pháp thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân gọi cái ý như cái thấy trong phòng tối; bốn trần của phù căn rong ruổi chạy theo pháp.

  • A Nan, Lục căn như vậy do tánh giác minh kia chuyển thành minh giác, mất tánh sáng suốt, dính với cái vọng mà phát ra hay biết. 
  • Vậy nên ông nay rời sáng rời tối, thì không có cái thấy, rời động rời tĩnh, thì không có cái nghe, không thông không bịt, thì cái ngửi không sanh, không vị không nhạt, thì cái nếm không phát ra, không ly không hợp, thì cái biết xúc vốn không, không diệt không sanh, thì cái rõ biết không gá vào đâu.
  • Ông chỉ đi theo những động tĩnh, hợp ly, không vị có vị, thông bịt, sáng tối, sanh diệt, cả mười hai tướng hữu vi đó, đi đến rút được một căn ra khỏi cái dính, phục vào bên trong, phục trở về tánh bản chân, phát ra tánh sáng suốt bản lai; tánh sáng suốt đó đã phát minh, thì năm chỗ dính khác cũng liền đó được giải thoát.
  • Không do tiền trần mà khởi ra tri kiến thì cái sáng suốt không đi theo căn, chỉ gửi nơi căn mà phát ra; nhân đó Lục căn có thể dùng thay lẫn nhau.
  • A Nan, há ông không biết ở trong hội nầy, ông A Na Luật không có mắt mà thấy, rồng Bạt Nan Đà không có tai mà nghe, thần nữ Căng Già không có mũi mà nghe hương, ông Kiều Phạm Bát Đề lưỡi khác mà biết vị, thần Thuấn Nhã Đa không có thân mà biết xúc, do hào quang Như Lai ánh ra, làm cho ông ấy tạm thời hiện ra có thân, chứ bản chất của ông là gió, thì thân thể vốn không có; các vị Thanh văn được tịch diệt trong diệt tận định, như ông Ma Ha Ca Diếp trong hội nầy, đã diệt Ý căn lâu rồi mà vẫn rõ biết cùng khắp, không nhân tâm niệm.
  • A Nan, nếu các căn của ông đều được giải thoát trọn đủ, thì cái sáng suốt trong tâm tánh phát ra; như thế, thì các phù trần và các tướng biến hoá trong thế gian sự vật đều tiêu mất, như giá gặp nước sôi, ngay đó, liền hóa thành vô thượng tri giác. 
  • A Nan, như người thế gian kia, nhóm cái thấy nơi con mắt; nếu bảo nhắm kín, thì tướng tối hiện ra, cả Lục căn đều tối, đầu và chân giống nhau. Người kia lấy tay rờ quanh ngoài thân thể, thì tuy không thấy, nhưng một phen nhận được đầu và chân rồi, thì cái hay biết vẫn đồng như trước kia.
  • Duyên vì cái thấy nhân nơi sáng, nên khi tối thành ra không thấy, chứ không có sáng mà tự phát ra cái thấy, thì các thứ tối hẳn không thể làm mờ được. Căn và trần đã tiêu rồi, làm sao tánh giác minh lại không thành nhiệm mầu cùng khắp.

Ông A Nan bạch Phật rằng:

  • Bạch Thế Tôn, như lời Phật dạy, chỗ phát tâm cầu được thường trụ trong lúc tu nhân, cốt yếu cần phải cân xứng với những đức tánh trong lúc chứng quả. 
  • Bạch Thế Tôn, như trong quả vị, nào là Bồ đề, Niết bàn, Chân như, Phật tánh, Am ma la thức, Không Như Lai tạng, Đại viên kính trí; bảy thứ danh hiệu tuy có khác nhau, nhưng thể tánh đều thanh tịnh viên mãn, vững chắc như Kim cang vương, thường trụ, không hư nát.
  • Nếu cái thấy nghe, ngoài những tướng sáng tối, động tĩnh, thông bịt, rốt ráo không có tự thể cũng như cái tâm niệm, rời tiền trần ra, vốn không có gì, thì làm sao lại đem cái rốt ráo đoạn diệt ấy làm cái nhân tu hành, để được bảy quả thường trụ của Như Lai. 
  • Bạch Thế Tôn, nếu rời sáng tối, thì cái thấy rốt ráo là không; nếu không có tiền trần, thì tự tánh tâm niệm diệt mất, lui tới vần xoay, suy xét chín chắn, vốn không có tâm tôi và tâm sở của tôi; vậy đem cái gì làm nhân, để cầu được vô thượng giác. 
  • Đức Như Lai trước kia nói cái tánh hay biết yên lặng là viên mãn thường trụ, nhưng đã trái với lẽ thường, thì rốt cuộc chỉ thành hý luận, làm sao nhận được lời nói Như Lai là chân thật. 
  • Xin Phật rủ lòng đại từ, mở chỗ mê chấp cho tôi.

Phật bảo ông A Nan rằng:

  • Ông học về mặt nghe nhiều, chưa hết các điều lậu lạc, trong tâm chỉ biết suông cái nhân điên đảo mà cái điên đảo hiện thật trước đó thì chưa biết được, e ông thành thật còn chưa tin phục. 
  • Nay tôi thử đem những việc trần tục để trừ cái nghi của ông.

Khi bấy giờ, đức Như Lai bảo ông La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi hỏi ông A Nan rằng:

  • Nay ông có nghe chăng?

Ông A Nan và đại chúng đều nói:

  • Có nghe.

Chuông hết kêu, không tiếng, Phật lại hỏi rằng:

  • Nay ông có nghe chăng?

Ông A Nan và đại chúng đều đáp:

  • Không nghe.

Khi đó, ông La Hầu La lại đánh một tiếng, Phật lại hỏi rằng:

  • Nay ông có nghe chăng?

Ông A Nan và đại chúng đều đáp:

  • Có nghe.

Phật hỏi ông A Nan:

  • Thế nào, thì ông có nghe, còn thế nào, thì ông không nghe?

Ông A Nan và đại chúng đều bạch Phật rằng:

  • Tiếng chuông nếu đánh lên, thì chúng tôi được nghe; đánh lâu tiếng hết, tăm vang đều không còn, thì gọi là không nghe.

Như Lai lại bảo ông La Hầu La đánh chuông, rồi hỏi ông A Nan rằng:

  • Theo ông, nay có tiếng không?

Ông A Nan và đại chúng đều nói:

  • Có tiếng.

Ít lâu tiếng dứt, Phật lại hỏi rằng:

  • Theo ông, nay có tiếng không?

Ông A Nan và đại chúng đều đáp:

  • Không tiếng.

Lát sau, ông La Hầu La lại đánh chuông, Phật lại hỏi rằng:

  • Theo ông, nay có tiếng không?

Ông A Nan và đại chúng đều nói:

  • Có tiếng.

Phật hỏi ông A Nan:

  • Thế nào, ông gọi là có tiếng, còn thế nào, thì gọi là không tiếng?

Ông A Nan và đại chúng đều bạch Phật rằng:

  • Tiếng chuông, nếu đánh lên, thì gọi là có tiếng, đánh lâu tiếng hết, tăm vang đều không còn, thì gọi là không tiếng.

Phật bảo ông A Nan và đại chúng rằng:

  • Hôm nay các ông sao nói trái ngược, lộn xộn như thế?

Đại chúng và ông A Nan đồng thời bạch Phật:

  • Làm sao Phật bảo chúng tôi trái ngược lộn xộn?

Phật dạy:

  • Tôi hỏi ông về nghe, thì ông nói là nghe, tôi hỏi về tiếng, thì ông nói là tiếng, chỉ cái nghe và cái tiếng mà trả lời không nhất định như thế, sao lại không gọi là trái ngược lộn xộn? 
  • A Nan, tiếng tiêu mất, không tăm vang, thì ông gọi là không nghe; nếu thật không nghe, thì tánh nghe đã diệt rồi đồng như cây khô, khi tiếng chuông lại đánh lên, làm sao ông còn biết được. Biết có, biết không là tự cái tiếng hoặc không, hoặc có, đâu phải tánh nghe kia vì đó mà có, mà không; nếu tánh nghe thật là không, thì còn cái gì biết là không nữa.
  • Vậy nên A Nan, cái tiếng ở trong cái nghe tự có sanh, có diệt, không phải vì ông nghe cái tiếng sanh diệt, mà làm cho tánh nghe của ông thành có, thành không. Ông còn lộn lạo, lầm cái tiếng làm cái nghe, lạ gì chẳng mê mờ, lấy cái thường làm cái đoạn. Tóm lại, ông không nên nói rằng rời các thứ động tĩnh, đóng mở, thông bịt, thì cái nghe không có tánh.
  • Như người ngủ mê, nằm trên giường gối; trong nhà có người, trong lúc người kia ngủ, giã một cối gạo; người ấy trong chiêm bao nghe tiếng giã gạo, lầm thành vật khác, hoặc cho là đánh trống, hoặc cho là đánh chuông. Tức trong chiêm bao người ấy cũng lấy làm lạ rằng sao tiếng chuông lại vang lên như cây, như đá. Khi chợt tỉnh dậy, liền nghe tiếng chày, thì người ấy tự bảo người nhà rằng chính trong lúc chiêm bao, tôi đã lầm tiếng chày nầy là tiếng trống. 
  • A Nan, người đó, trong chiêm bao, đâu nhớ những chuyện động tĩnh, đóng mở, thông bịt; hình người kia tuy ngủ nhưng tánh nghe không mờ, dầu cho hình ông tiêu tan, thân mạng dời đổi diệt mất, làm sao tánh nghe ấy lại vì ông mà tiêu diệt được.
  • Do các chúng sanh, từ vô thủy đến nayđi theo sắc thanh, theo niệm mà lưu chuyển, không hề khai ngộ bản tánh thanh tịnh diệu thường; không theo cái thường, chỉ theo các thứ sanh diệt, do đó, đời đời bị tạp nhiễm mà phải lưu chuyển.
  • Nếu bỏ cái sanh diệt, giữ tánh chân thường; cái sáng suốt chân thường hiện tiền, thì các tâm niệm căn, trần, thức, ngay đó đều tiêu mất; tướng vọng tưởng là trần, tánh phân biệt là cấu, hai cái đó đã xa rời, thì pháp nhãn của ông liền được trong suốt, làm sao lại không thành bậc vô thượng tri giác.

NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT