Skip to content

Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 1: Duyên Khởi – Tâm Ở Chỗ Nào – Tánh Thấy Không Phải Con Mắt

大佛頂首楞嚴經

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh – Tập 19 – Số 945 (Mật Giáo Bộ)
Surangama Sutra – 大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經
Đại Phật Đỉnh
Như Lai Mật Nhân
Tu Chứng Liễu Nghĩa
Chư Bồ Tát Vạn Hạnh
Thủ Lăng Nghiêm Kinh
Ngài Bồ tát Long Thụ (thế kỷ II) thỉnh từ cung rồng Ta Kiệt La
Nước Trung Hoa – triều Đại Đường (618~907) – đời Trung Tông (705~710)
Ngài Sa môn Bát Lạt Mật Đế (người Thiên Trúc) dịch chép ra Phạn văn, sau đó truyền kinh sang Trung Hoa và tổng dịch năm 705
Sa môn Di Già Thích Ca (?~?) Hán dịch từ Phạn văn
Sa môn Hoài Địch (?~?) chứng minh bản dịch
Cư sĩ Phòng Dung (tể tướng đời Võ Chu) bình chương, bút thọ, bảo trợ bản dịch
Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (1897~1969) Việt dịch từ Hán văn năm 1961
daithua.com biên tập năm 2021

Quyển 1:

Duyên Khởi
Tâm Ở Chỗ Nào
Tánh Thấy Không Phải Con Mắt


Như vậy tôi được nghe trong một thời, Phật ở tịnh xá Kỳ Hoàn thành Thất La Phiệt, cùng với chúng Đại Tỳ kheo 1250 vị, đều là bậc vô lậu Đại A la hán. Các vị Phật tử trụ trì, khéo vượt trên chư hữu, ở các quốc độ đầy đủ uy nghi, theo Phật Chuyển pháp luân, có khả năng thật hiện lời di chúc nhiệm mầu của Phật, nghiêm giữ giới luật thanh tịnh để làm khuôn phép cho ba cõi, hiện thân vô số, cứu vớt chúng sanh, tột đời vị lai, khỏi các trần lụy. Các vị tên là: Đại trí Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Câu Si La, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, Ưu Ba Ni Sa Đà làm thượng thủ.


Lại có vô số các vị Bích chi Vô học và sơ tâm đồng đến chổ Phật giảng đạo. Nhằm ngày các vị Tỳ kheo mãn hạ tự tứ, các vị Bồ tát, từ mười phương đến, xin Phật giải quyết nghi hoặc, kính vâng Đức Từ Nghiêm, thỉnh cầu nghĩa thâm mật.

Đức Như Lai giải pháp tọa, ngồi khoan thai, vì cả trong hội tỏ bày nghĩa sâu. Chúng hội thanh tịnh được pháp chưa từng có. Giọng nói của Phật hòa nhã như tiếng chim ca lăng tầng già, nghe khắp mười phương. Hằng sa Bồ tát đều đến đạo trường, có ngài Văn Thù Sư Lợi làm thượng thủ.

Khi ấy vua Ba Tư Nặc, nhân ngày kỵ phụ vương, mở tiệc chay mời Phật thụ trai nơi cung cấm; vua sắm đủ các món ăn quý báu, rồi thân đến rước Phật và các vị Đại Bồ tát. Trong thành lại có các trưởng giả cư sĩ đồng thời cùng trai tăng, chờ Phật đến chứng. Phật khiến ngài Văn Thù chia lãnh các vị Bồ Tát và A la hán đi đến các nhà trai chủ.

Duy có ông A Nan trước đả nhận lời mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng tăng chúng. Ông về một mình, không có Thượng tọa và A xà lê cùng đi và ngày ấy cũng không được ai cúng dường. Lúc bấy giờ ông cầm bình bát vào trong một thành trên đường đi, theo thứ lớp khất thực; tâm ông trước hết cầu được một người tối hậu đàn việt làm trai chủ, không kể sang hèn, phát tâm làm sao cho tất cả chúng sanh được viên thành vô lượng công đức. 

Ông A Nan đã biết Đức Phật Thế Tôn quở ông Tu Bồ Đề và ông Ma Ha Ca Diếp làm A la hán mà tâm không công bằng. Ônh kính vâng lời dạy vô giá của Phật độ thoát mọi điều chê bai nghi hoặc. Ông đến bên thành, thong thả vào cửa, uy nghi nghiêm chỉnh, kính giữ phép hóa trai.

Trong khi khất thực, ông A Nan đi qua nhà người dâm nữ Ma Đăng Già, bị phép huyễn thuật. Nàng ấy dùng tà chú Tiên Phạm Thiên của đạo Sa Tỳ Ca La bắt vào phòng riêng, dựa kề vuốt ve làm cho ông A Nan gần phá giới thể.

Đức Như Lai biết ông A Nan mắc phải dâm thuật, nên dùng trai rồi, liền trở về tịnh xá. Vua cùng đại thần, trưởng giả cư sĩ đều đi theo Phật, mong nghe những pháp chủ yếu của đạo Phật.

Khi ấy trên đỉnh Đức Thế Tôn, phóng hào quang bách bảo vô úy; trong hào quang hiện ra tòa sen báu nghìn cánh, có hoá thân của Phật kết già ngồi trên, tuyên đọc thần chú, khiến ngài Văn Thù đem chú nầy đến giúp đỡ, tiêu diệt tà chú, đưa ông A Nan cùng nàng Ma Đăng Già đều về chỗ Phật ở.

Ông A Nan thấy Phật, đỉnh lể khóc lóc, giận mình từ vô thủy đến nay, một bề học rộng nhớ nhiều, chưa toàn đạo lực, tha thiết xin Phật dạy cho những phép Xa ma tha, Tam ma địa, Thiền na, là những phương tiện tu hành đầu tiên để thành đạo Bồ đề của thập phương Như Lai. Lúc ấy lại có hằng sa Bồ tát, Đại A la hán và Bích chi Phật, từ mười phương đến, thảy đều mong nghe Phật dạy, lui về chổ ngồi, yên lặng lĩnh thụ thánh chỉ của Phật.


Phật bảo ông A Nan: 

  • Tôi với ông đồng phái, tình như anh em ruột; lúc ông mới phát tâm thì ở trong Phật pháp, thấy những tướng tốt gì mà bỏ được những ân ái sâu nặng thế gian?

Ông A Nan bạch Phật:

  • Tôi thấy 32 tướng của Như Lai tốt đẹp lạ thường, hình thể sáng suốt như ngọc lưu ly, thường tự suy nghĩ: Tướng ấy không thể do dục ái sanh ra, vì sao?
  • Giống dâm dục nhơ nhớp, tanh hôi kết cấu, máu mủ xen lộn, làm sao sanh được thân vàng thắm chói trong sạch sáng suốt như vậy, nên tôi ước mong, cắt tóc theo Phật tu học.

Phật dạy:

  • Hay thay, A Nan, các ông nên biết hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay sống chết nối luôn, đều do không biết thể tánh trong sạch sáng suốt của thường trụ chân tâm mà lại chỉ dùng các vọng tưởng, vì vọng tưởng đó không chân thật nên mới có luân hồi.
  • Nay ông muốn học đạo Vô thượng Bồ đề, phát minh chân tánh thì nên lấy tâm ngay thẳng mà đáp lại những câu hỏi của tôi. thập phương Như Lai đều do một đường thoát ly sanh tử là dùng tâm ngay thẳng. Tâm mà nói là ngay thẳng thì cứ như vậy, từ địa vị đầu đến địa vị cuối cùng, chặng giữa, hẳn không có những tướng quanh co.
  • A Nan, nay tôi hỏi ông: Đương khi ông do 32 tướng của Như Lai mà phát tâm thì ông đem cái gì mà thấy và cái gì ưa muốn?

Ông A Nan bạch Phật:

  • Thưa Thế Tôn, ưa muốn như vậy là dùng cái tâm và con mắt của tôi. Do mắt thấy tướng tốt Như Lai, tâm sanh ưa muốn nên tôi phát tâm muốn tu hành thoát khỏi sống chết.

Phật bảo ông A Nan:

  • Như lời ông nói: Thật do tâm và con mắt mà có ưa muốn. Nếu không biết tâm và con mắt ở đâu thì không thể hàng phục được trần lao; ví như ông vua một nước bị giặc xâm lấn, phát binh đánh dẹp, thì binh ấy cần biết giặc ở chỗ nào mới đánh dẹp được.
  • Hiện ông còn mắc phải luân hồi là lỗi tại tâm và con mắt của ông.
  • Nay tôi hỏi ông: Tâm và con mắt ấy hiện ở chỗ nào?

Ông A Nan bạch Phật:

  • Thưa Thế Tôn tất cả mười loài chúng sanh trong thế gian đều cho cái tâm hay biết là ở trong thân. Dầu tôi xem con mắt như hoa sen xanh của Như Lai cũng ở trên mặt Phật; tôi thấy con mắt vật chất của tôi ở trên mặt tôi.
  • Như vậy thì tâm hay biết thật ở trong thân.

Phật bảo ông A Nan:

  • Hiện nay ông ngồi trong giảng đường Như Lai. Ông hãy xem rừng Kỳ Đà hiện ở chỗ nào?
  • Thưa Thế Tôn, giảng đường cao lớn thanh tịnh này ở trong vườn Cấp Cô Độc, còn rừng Kỳ Đà hiện thật ở ngoài giảng đường.
  • A Nan, nay ông ở trong giảng đường thì ông thấy cái gì trước?
  • Thưa Thế Tôn, tôi ở trong giảng đường, trước thấy Như Lai, sau xem đại chúng, rồi trông ra ngoài thấy vườn rừng.
  • A Nan, do đâu ông thấy được vườn rừng?
  • Thưa Thế Tôn, do các cửa giảng đường mở rộng nên tôi ở trong thấy suốt được đến ra ngoài xa.

Khi ấy Đức Thế Tôn, ở trong đại chúng, đưa cánh tay kim sắc xoa đầu ông A Nan, chỉ bảo ông A Nan và đại chúng rằng:

  • Có pháp Tam ma địa tên là Đại Phật đỉnh Thủ lăng nghiêm vương, gồm đủ muôn hạnh. thập phương Như Lai đều do một Pháp môn ấy vượt lên đường diệu trang nghiêm. Ông nên chăm chú lắng nghe.

Ông A Nan đỉnh lễ, kính vâng lời Phật dạy.

Phật bảo ông A Nan:

  • Như ông vừa nói: Ở trong giảng đường, do cửa mở rộng nên ông trông xa thấy được rừng vườn; phỏng có chúng sanh nào ở trong giảng đường, không thấy Như Lai mà lại thấy được ngoài giảng đường chăng?

Ông A Nan bạch Phật:

  • Thưa Thế Tôn, ở trong giảng đường không thấy Như Lai mà thấy được rừng suối ở ngoài, thật không có lẽ nào như vậy.
  • A Nan, chính ông cũng vậy. Cái tâm của ông rõ biết hết thảy. Nếu hiện nay cái tâm rõ biết ấy thật ở trong thân thì trước hết nó phải rõ biết trong thân thể.
  • Vậy có chúng sanh nào, trước thấy bên trong thân, rồi sau mới thấy những vật ở ngoài không?
  • Dầu không thấy được tim gan tì vị, nhưng móng tay mọc, tóc dài ra, gân chuyển, mạch nhảy, lẽ phải rõ biết, sao lại không biết?
  • Đã không biết bên trong, sao lại biết được bên ngoài?
  • Vậy nên biết rằng ông nói cái tâm hay biết hiện ở trong thân, thật không có lẽ nào như vậy.

Ông A Nan cúi đầu bạch Phật:

  • Tôi nghe lời Phật dạy như vậy, mới rõ tâm tôi thật ở ngoài thân. Vì sao?
  • Ví như đèn thắp trong phòng, trước hết phải chiếu trong phòng, rồi sau mới do nơi cửa chiếu sáng ngoài sân. Hết thảy chúng sanh không thấy bên trong thân mà riêng thấy bên ngoài, cũng như ngọn đèn, để ở ngoài phòng, không thể chiếu sáng trong phòng.
  • Nghĩa ấy rõ ràng, có lẽ không lầm, chưa biết có đúng với nghĩa lý rốt ráo của Phật hay không?

Phật bảo ông A Nan:

  • Vừa rồi, các Tỳ kheo theo tôi khất thực trong thành Thất La Phiệt, nay đã về rừng Kỳ Đà. Tôi đã thụ trai rồi, ông hãy xem trong hàng Tỳ kheo, khi một người ăn thì các người khác có no không?

Ông A Nan bạch Phật:

  • Thưa Thế Tôn, không; vì rằng các Tỳ kheo tuy là A la hán, nhưng thân thể khác nhau, lẽ nào một người ăn lại làm cho cả chúng đều no được.

Phật bảo ông A Nan:

  • Nếu cái tâm hay biết của ông thật ở ngoài thân thì thân và tâm riêng cách, tất nhiên không dính líu gì với nhau; vậy cái gì tâm biết thì thân không thể hay, cái gì thân hay thì tâm không thể biết.
  • Nay tôi giơ tay Đâu la miên cho ông xem, trong khi mắt ông thấy thì tâm ông có biết là tay của tôi không?

Ông A Nan bạch Phật:

  • Thưa Thế Tôn, đúng thế.

Phật bảo ông A Nan:

  • Nếu thân với tâm cùng hay biết một lúc với nhau thì làm sao tâm lại ở ngoài thân?
  • Vậy nên biết rằng ông nói tâm hay biết hiện ở ngoài thân, thật không có lẽ nào như vậy.

Ông A Nan bạch Phật:

  • Thưa Thế Tôn, như lời Phật dạy: vì không thấy bên trong, tâm không ở trong thân, vì thân tâm cùng biết, không thể rời nhau, tâm không ở ngoài thân, nay tôi suy nghĩ, biết tâm ở một chổ!

Phật dạy:

  • Chỗ ấy ở đâu?

Ông A Nan bạch Phật:

  • Cái tâm hay biết đã không biết bên trong mà lại thấy bên ngoài, theo ý tôi nghĩ thì nó núp sau con mắt. Ví như có người lấy chén lưu ly úp vào hai con mắt, con mắt tuy có vật úp vào nhưng không làm ngăn ngại, con mắt kia liền thấy thì liền phân biệt được ngay. Song tâm hay biết của tôi không thấy bên trong là vì tâm ở nơi con mắt; nhưng lại thấy bên ngoài rõ ràng, không bị ngăn ngại, là vì tâm núp sau con mắt.

Phật bảo ông A Nan:

  • Như ông vừa nói: Tâm núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly; vậy người kia đương khi lấy chén lưu ly úp vào hai mắt, trông thấy núi sông thì có trông thấy chén lưu ly không?
  • Thưa Thế Tôn, đúng thế, người ấy đương khi lấy chén lưu ly úp vào hai mắt, thật có thấy chén lưu ly.

Phật bảo ông A Nan:

  • Nếu tâm ông núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly thì trong khi trông thấy núi sông sao không trông thấy con mắt?
  • Nếu trông thấy con mắt thì con mắt hình như ngoại cảnh, không thể liền thấy mà liền biết được.
  • Nếu không thấy được con mắt thì sao lại nói rằng tâm hay biết núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly?
  • Vậy nên biết rằng ông nói cái tâm hay biết núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly, thật không có lẽ nào như vậy.

Ông A Nan bạch Phật:

  • Thưa Thế Tôn, nay tôi lại nghĩ như vầy: Trong thân thể chúng sanh này, phủ tạng ở trong, khiếu huyệt ở ngoài, có tạng thì tối, có khiếu thì sáng.
  • Nay tôi trả lời Phật rằng: Mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong. Nghĩa ấy thế nào?

Phật bảo ông A Nan:

  • Đương khi ông nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy là đối với mắt hay không đối với mắt. Nếu đối với mắt thì cái tối trước mắt, sao lại ở trong thân?
  • Nếu thành ở trong thân thì khi ở trong phòng tối, không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn, cái gì ở trong phòng tối đó đều là tam tiêu lục phủ của ông hay sao?
  • Còn như cái tối không đối với mắt, thì làm sao thành ra có thấy?
  • Dầu tách rời lối thấy bên ngoài mà cho rằng con mắt đối vào trong nên thấy tối, thì nhắm mắt thấy tối, gọi là thấy bên trong thân; vậy mở mắt thấy sáng sao lại không thấy cái mặt.
  • Nếu không thấy cái mặt thì cái nghĩa con mắt đối vào trong, không thành lập được. Còn như thấy được cái mặt thì cái tâm hay biết ấy và con mắt đều ở ngoài hư không, sao lại thành ở trong thân được?
  • Nếu tâm và con mắt ở ngoài hư không thì tất nhiên không phải là thể chất của ông, vì không lẽ hiện nay Như Lai thấy mặt ông cũng là thân của ông hay sao?
  • Và như thế thì con mắt đã biết, thân ông lẽ phải không biết. Nếu ông chấp rằng thân và con mắt đều có biết thì ông phải có hai tánh biết, rồi chính một thân ông sẽ thành hai Đức Phật hay sao?
  • Vậy nên biết rằng ông nói thấy tối là thấy bên trong thân, thật không có lẽ nào như vậy.

Ông A Nan bạch Phật:

  • Tôi thường nghe Phật chỉ dạy tứ chúng: Do tâm sanh nên các thứ pháp sanh, do pháp sanh nên các thứ tâm sanh.
  • Nay tôi suy nghĩ thì tức cái thể suy nghĩ đó thật là tâm tánh của tôi, hễ hợp với chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó, chứ không phải ở trong, ở ngoài hay ở chặng giữa.

Phật bảo ông A Nan:

  • Nay ông nói rằng: Do pháp sanh nên các thứ tâm sanh, hễ hợp với chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó. Cái tâm ấy nếu không có tự thể thì không thể hợp được; chứ còn nếu không có tự thể mà vẫn hợp được thì giới thứ 19 cùng trần thứ 7 hợp lại được hay sao?
  • Nghĩa ấy quyết không đúng. Còn nếu có tự thể thì trong khi ông lấy tay tự gãi thân ông, cái tâm biết gãi của ông ở trong thân ra hay từ bên ngoài vào?
  • Như ở trong thân ra thì lại phải thấy bên trong, còn như từ ngoài vào thì trước hết phải thấy cái mặt.

Ông A Nan bạch Phật:

  • Thấy là con mắt, còn tâm thì biết chứ không phải thấy như con mắt; nói tâm thấy là không đúng nghĩa.

Phật dạy:

  • Nếu con mắt thấy được thì khi ông ở trong phòng, cái cửa có thấy được không?
  • Lại những người chết rồi, vẫn còn con mắt, lẽ ra phải thấy được vật; mà nếu thấy được vật thì sao gọi là chết.
  • A Nan, lại nếu cái tâm hay biết của ông phải có tự thể thì có một thể hay có nhiều thể? 
  • Nay tâm ở nơi thân ông, thể ấy cùng khắp cả mình hay không cùng khắp?
  • Nếu tâm có một thể thì ông lấy tay gãi một chi, lẽ ra cả tứ chi đều biết; mà nếu đều biết thì lại không biết gãi ở chỗ nào.
  • Nếu biết chỗ gãi thì cái thuyết một thể của ông tự nhiên không thể thành lập được.
  • Nếu như có nhiều thể thì thành ra nhiều người, còn biết cái thể nào là thể của ông.
  • Nếu cái thể ấy cùng khắp cả mình thì lại như trước kia, không biết được chỗ gãi.
  • Nếu còn như không cùng khắp thì khi ông chạm trên đầu, đồng thời cũng chạm dưới chân, hễ đầu có biết, lẽ ra chân phải không biết, nhưng hiện nay ông lại không phải như thế. 
  • Vậy nên biết rằng hễ hợp với chỗ nào, tâm liền có ở chỗ đó, thật không có lẽ nào như vậy.

Ông A Nan bạch Phật:

  • Thưa Thế Tôn, trong khi Phật nói thật tướng với các vị Pháp vương tử như ngài Văn Thù, tôi có nghe Đức Thế Tôn cũng dạy rằng: Tâm không ở trong, cũng không ở ngoài. 
  • Theo ý tôi nghĩ: Tâm ở trong thân, sao lại không thấy bên trong; tâm ở ngoài thân thì thân và tâm không cùng biết.
  • Vì tâm không biết bên trong nên không thể nói tâm ở trong thân, vì thân và tâm cùng biết nên nói tâm ở ngoài cũng không đúng lý.
  • Nay thân và tâm cùng biết, lại tâm không thấy được bên trong thân thì tâm phải ở chặng giữa.

Phật bảo ông A Nan:

  • Ông nói ở chặng giữa thì cái giữa ấy chắc không lẫn lộn và không phải không có chỗ. Nay ông nhận định cái giữa ấy ở chỗ nào, ở nơi cảnh hay ở nơi thân?
  • Nếu ở nơi thân mà ở một bên thì không phải là giữa; còn nếu ở giữa thân thì cũng như ở trong thân.
  • Nếu cái giữa ở nơi cảnh thì có thể nêu ra được hay không thể nêu ra được?
  • Không nêu ra được thì cũng như không có cái giữa, còn nêu ra được thì lại không nhất định ở giữa. Vì sao?
  • Ví như có người lấy một cây nêu, nêu một chỗ làm cái giữa, thì phương Đông trông qua, cái nêu lại ở phương Tây; phương Nam nhìn ra, cái nêu thành ở phương Bắc.
  • Cái giữa nêu ra đã lẫn lộn thì tâm phải rối bời, không rõ ở đâu.

Ông A Nan bạch Phật:

  • Cái giữa của tôi nói, không phải hai thứ ấy. Như Đức Thế Tôn thường dạy: Nhãn căn và Sắc trần làm duyên, phát sanh Nhãn thức. Nhãn căn có phân biệt, Sắc trần không hay biết, Nhãn thức sanh ra ở giữa thì tâm ở chỗ đó.

Phật dạy:

  • Nếu tâm ông ở giữa căn và trần thì cái thể tâm ấy gồm cả hai bên hay không gồm cả hai bên?
  • Nếu gồm cả hai bên thì ngoại vật và tâm thể xen lộn, còn biết tâm là gì?
  • Ngoại vật không phải có biết như tâm thể; bên có biết, bên không biết, trái hẳn lẫn nhau thì lấy cái gì làm cái ở giữa?
  • Gồm cả hai bên cũng không được và nếu không phải có biết và cũng không phải không biết thì tức là không có thể tánh, lấy gì làm cái tướng ở giữa.
  • Vậy nên biết rằng ông nói cái tâm phải ở chặng giữa, thật không có lẽ nào như vậy.

Ông A Nan bạch Phật:

  • Thưa Thế Tôn, trước đây tôi thấy Phật cùng Chuyển pháp luân với 4 vị đại đệ tử là Ma Ha Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na, Xá Lợi Phất; Phật thường dạy: Cái tánh của tâm hay biết cũng chẳng ở trong, cũng chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở chặng giữa, chẳng ở chỗ nào cả, không dính dáng vào đâu tất cả thì gọi là tâm.
  • Vậy tôi lấy cái không dính dáng của tôi mà gọi là tâm, có được chăng?

Phật bảo ông A Nan:

  • Ông nói tánh của tâm hay biết, không ở đâu cả. Vậy các vật tượng thế gian như hư không và các loài thủy, lục, không, hành, gọi là tất cả sự vật mà ông không dính dáng vào, là có hay là không có? 
  • Không, thì đồng như lông rùa, sừng thỏ, còn gì mà không dính dáng? 
  • Đã có cái không dính dáng thì không thể gọi là không. Không có tướng thì là không, không phải không thì có tướng; có tướng thì có chỗ ở, làm sao lại không dính dáng được. 
  • Vậy nên biết rằng ông nói cái không dính dáng vào đâu tất cả gọi là tâm hay biết, thật không có lẽ nào như vậy.

Khi bấy giờ ông A Nan, ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo bên phải, đầu gối bên phải chấm đất, chấp tay cung kính mà bạch Phật rằng: 

  • Tôi là em rất nhỏ của Như Lai, nhờ Phật thương yêu, nay tuy được xuất gia, còn ỷ lại nơi lòng thương của Phật. 
  • Vì vậy nên tôi học rộng nghe nhiều mà chưa chứng quả vô lậu, không uốn dẹp được chú Sa Tỳ Ca La, bị nó bắt phải vào nhà dâm nữ; nguyên do là vì không biết đường tu tập đi đến chỗ chân thật. 
  • Cầu xin Thế Tôn đại từ thương xót, chỉ dạy cho chúng tôi đường tu Xa ma tha, cũng khiến cho những ngưòi không tin trừ bỏ những tư tưởng xấu.

Ông A Nan nói như vậy rồi, năm vóc gieo xuống đất, cùng với đại chúng, hết lòng mong được nghe lời Phật dạy.


Khi bấy giờ Đức Thế Tôn, từ trước mặt, phóng ra các thứ hào quang, hào quang ấy chói sáng như trăm nghìn mặt trời, khắp các thế giới chư Phật, sáu thứ rung động, như thật các cõi nước mười phương, nhiều như vi trần, hiện ra trong một lúc. Oai thần của Phật khiến các thế giới hợp lại thành một thế giới. Trong thế giới nầy, tất cả các vị Bồ tát hiện có, đều an trụ nơi nước mình, chấp tay vâng nghe lời Phật dạy.


Phật bảo ông A Nan:

  • Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay điên đảo nhiều cách, giống nghiệp tự nhiên nhóm lại như chum quả ác xoa. Những người tu hành không thành được đạo Vô thượng Bồ đề, đến nỗi lại thành Thanh văn, Duyên giác hoặc thành ngoại đạo, chư thiên, Ma vương hay bà con Ma, đều do không biết hai chữ cỗi gốc, tu tập sai lầm, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm, dầu trải qua nhiều kiếp như vi trần, rốt cuộc vẫn không thể thành được.
  • Thế nào là hai thứ cỗi gốc?
  • A Nan! Một là cái cỗi gốc sống chết vô thủy, tức như ông ngày nay cùng các chúng sanh dùng cái tâm phan duyên mà làm tự tánh. Hai là cái thể bản lai thanh tịnh Bồ đề Niết bàn vô thủy thì như hiện nay cái tánh bản minh thức tánh của ông, sanh ra các duyên ma lại bị bỏ rơi.
  • Do các chúng sanh bỏ rơi cái bản minh ấy nên tuy cả ngày sống trong tánh bản minh mà không tự giác, oan uổng vào trong lục đạo.

  • A Nan, nay ông muốn biết đường tu Xa ma tha ra khỏi sống chết, tôi lại hỏi ông.

Liền đó Đức Như Lai giơ cánh tay kim sắc, co năm ngón tay, bảo ông A Nan:

  • Ông có thấy không?

Ông A Nan bạch Phật:

  • Thấy.

Phật bảo:

  • Ông thấy cái gì?

Ông A Nan bạch:

  • Tôi thấy Như Lai giơ cánh tay, co ngón tay thành nắm tay sáng ngời, chói tâm và con mắt của tôi.

Phật bảo:

  • Ông đem cái gì mà thấy?

Ông A Nan bạch:

  • Tôi cùng đại chúng đều đem con mắt mà thấy.

Phật bảo ông A Nan:

  • Ông trả lời tôi rằng Như Lai co ngón tay làm thành nắm tay sáng ngời, chói tâm và con mắt của ông; con mắt ông thì thấy được, còn ông lấy cái gì làm tâm để đối với cái nắm tay chói sáng của tôi?

Ông A Nan bạch:

  • Như Lai hiện nay gạn hỏi tâm ở chỗ nào, tôi thì dùng tâm suy nghĩ tìm xét: Tức cái biết suy nghĩ ấy, tôi lấy nó làm tâm.

Phật bảo:

  • Sai rồi, A Nan, cái ấy không phải là tâm của ông.

Ông A Nan giựt mình, rời chỗ ngồi, chấp tay đứng dậy bạch Phật:

  • Cái ấy không phải là tâm tôi thì gọi là cái gì?

Phật bảo ông A Nan:

  • Cái ấy là cái tưởng tượng những tướng giả dối tiền trần, nó làm mê lầm chân tánh của ông. Do từ vô thủy cho đến đời này, ông nhận tên giặc ấy làm con, bỏ mất tánh bản lai thường trụ nên phải chịu luân hồi.

Ông A Nan bạch Phật:

  • Thưa Thế Tôn, tôi là em yêu của Phật, vì tâm yêu Phật nên tôi xuất gia. Tâm tôi chẳng những cúng dường Đức Như Lai, mà còn trải qua hằng sa quốc độ, thừa sự chư Phật và các vị thiện tri thức; phát lòng đại dũng mãnh, làm tất cả những pháp sự khó làm, là đều dùng cái tâm ấy. 
  • Dầu cho hủy báng Phật pháp, rời bỏ hẳn thiện căn, cũng nhân cái tâm ấy. 
  • Nay Phật phát minh cái ấy không phải là tâm thì tôi thành không có tâm, như cây như đất, vì ngoài cái hay biết ấy ra, tôi lại không còn gì nữa. 
  • Sao Đức Như Lai lại bảo cái ấy không phải là tâm?
  • Tôi thật kinh sợ và cả trong đại chúng nầy không ai là không nghi hoặc, xin Phật rủ lòng từ bi, chỉ dạy cho những chỗ chưa Giác ngộ.

Khi bấy giờ Đức Thế Tôn chỉ dạy ông A Nan và cả đại chúng, khiến cho tâm được Vô sanh Pháp nhẫn, nơi sư tử tọa, xoa đầu ông A Nan và bảo ông rằng:

  • Như Lai thường nói: Các pháp phát sanh là duy tâm biến hiện, tất cả nhân quả, thế giới, vi trần, đều nhân cái tâm thành có thể tánh.
  • A Nan, như trong các thế giới, hết thảy sự vật hiện có, cả đến ngọn cỏ lá, cây, sợi dây, thắt nút, gạn xét cỗi gốc, đều có thể tánh, dầu cho hư không cũng có tên, có tướng; huống chi cái tâm sáng suốt thanh tịnh nhiệm mầu, làm cho hết thảy sự vật có thể tánh mà tự mình lại không có thể tánh.
  • Nếu ông quyết chấp cái tánh hay biết suy xét phân biệt là tâm của ông thì cái tâm ấy phải rời sự nghiệp các trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, riêng có toàn tánh; chứ như hiện nay ông vâng nghe pháp âm của tôi, đó là nhân cái tiếng mà có phân biệt: dầu cho diệt hết tất cả cái thấy, nghe, hay, biết, bên trong nắm giữ cái u nhàn, không biết, không nghĩ thì đó cũng còn là sự phân biệt bóng dáng Pháp trần mà thôi.
  • Chẳng phải tôi bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm, nhưng ông phải, chính nơi tâm ông, suy xét chín chắn, nếu rời tiền trần có tánh phân biệt, thì đó mới thật là tâm của ông. Nếu tánh phân biệt, rời tiền trần, không còn tự thể thì nó chỉ là sự phân biệt bóng dáng tiền trần. Tiền trần không phải thường trụ, khi thay đổi diệt mất rồi, thì cái tâm nương vào tiền trần ấy cũng đồng như lông rùa sừng thỏ và Pháp thân của ông cũng thành như đoạn diệt, còn gì mà tu chứng Vô sanh Pháp nhẫn.

Lúc ấy ông A Nan cùng cả đại chúng lặng im ngơ ngác.

Phật bảo ông A Nan:

  • Trong thế gian, tất cả những người tu học, hiện tuy đã tu đến chín bậc định, nhưng không diệt hết được mê lầm, thành A la hán, đều do chấp cái vọng tưởng sống chết, lầm nó là tánh chân thật, vậy nên nay ông tuy được học rộng nghe nhiều, không thành chánh quả.

Ông A Nan nghe rồi, lại đau xót khóc lóc, năm vóc gieo xuống đất, quỳ dài chấp tay mà bạch Phật rằng:

  • Từ khi tôi theo Phật phát tâm xuất gia, ỷ thị oai thần của Phật, thường tự mình suy nghĩ, không cần phải tu, hầu như cho rằng Đức Như Lai sẽ ban cho phép Tam ma địa, không biết thân tâm vốn không thay thế nhau được; bỏ mất bản tâm của tôi; thân tuy xuất gia nhưng tâm không đi vào chính đạo, cũng như người con cùng khổ, bỏ cha trốn lánh. 
  • Ngày nay mới biết, tuy được nghe Phật pháp nhiều, nếu không tu hành thì chẳng khác gì người không nghe, cũng như người ta nói ăn mà không ăn, rốt cuộc không thể no được.
  • Thưa Thế Tôn, chúng tôi hiện nay còn bị hai chướng ràng buộc, do vì không biết tâm tánh yên lặng thường trụ, xin Đức Như Lai thương xót kẻ nghèo khó rách rưới, phát khởi tâm nhiệm mầu sáng suốt, mở đạo nhãn cho chúng tôi.

Lúc ấy Đức Như Lai từ chữ Vạn trước ngực, phóng ra hào quang báu, hào quang ấy rực rỡ có trăm nghìn sắc, sáng khắp một lúc tất cả thế giới chư Phật mười phương số như vi trần. Hào quang soi khắp trên đỉnh các Đức Như Lai thập phương bảo sát, xoay về soi đến ông A Nan và cả đại chúng, rồi Phật bảo ông A Nan rằng:

  • Nay tôi vì ông dựng pháp tràng lớn, đồng thời khiến cho tất cả thập phương chúng sanh được tâm tánh nhiệm mầu sâu kín, trong sạch, sáng suốt và đạo nhãn thanh tịnh.
  • A Nan, trước ông trả lời rằng thấy nắm tay chói sáng, cái chói sáng nắm tay ấy do đâu mà có, làm sao thành ra nắm tay, ông đem cái gì mà thấy?

Ông A Nan bạch:

  • Toàn thân Phật như vàng Diêm Phù Đàn, sáng ngời như núi báu, do đức tánh thanh tịnh sanh ra nên có hào quang chói sáng. Thật tôi lấy con mắt mà thấy năm ngón tay Phật co nắm lại, giơ cho người xem, nên có tướng nắm tay.

Phật bảo ông A Nan:

  • Như Lai ngày nay xác thật bảo ông. Những người có trí cần do ví dụ mà được khai ngộ. A Nan, ví như nắm tay tôi, nếu không có bàn tay tôi thì không thành nắm tay tôi, lại nếu không có con mắt ông, thì không thành cái thấy của ông.
  • Lấy cái thấy của ông mà so sánh với nắm tay của tôi, ý nghĩa có cân nhau không?

Ông A Nan bạch Phật:

  • Đúng vậy, thưa Thế Tôn, đã không có con mắt của tôi thì không thành cái thấy của tôi, đem cái thấy của tôi so với nắm tay Như Lai, sự nghĩa giống nhau không khác.

Phật bảo ông A Nan:

  • Ông nói giống nhau, nghĩa ấy không đúng. Vì sao?
  • Như người không có bàn tay thì tuyệt nhiên không có nắm tay; chứ người không có con mắt kia, không phải hoàn toàn không thấy. Là vì làm sao?
  • Ông thử ra đường hỏi những người đui: Anh thấy cái gì?
  • Thì những người đui kia chắc sẽ trả lời: Hiện nay trước mắt tôi chỉ thấy tối đen, không thấy gì khác. Lấy cái nghĩa ấy mà xét thì tiền trần tự tối, chứ cái thấy nào có hao kém gì.

Ông A Nan bạch Phật:

  • Những người đui trước mắt chỉ thấy tối đen, sao gọi là thấy được.

Phật bảo ông A Nan:

  • Các người đui không có con mắt chỉ thấy tối đen, so với người có con mắt ở trong nhà tối thì hai cái tối đen ấy khác nhau hay không khác nhau?
  • Thật vậy, thưa Thế Tôn, người ở trong nhà tối với những người đui kia, so sánh hai cái tối đen thật không thể khác nhau.
  • A Nan, nếu người không có con mắt, thấy trước hoàn toàn tối đen, bỗng nhiên được con mắt sáng, trở lại thấy các thứ sắc nơi tiền trần mà gọi là con mắt thấy; thì người ở trong nhà tối kia, thấy trước hoàn toàn tối đen, bỗng nhiên được cái đèn sáng, cũng thấy các thứ sắc nơi tiền trần, lẽ ra phải gọi là cái đèn thấy. Nếu như cái đèn thấy thì đèn đã thấy được, tự nhiên không thể gọi là đèn; lại cái đèn nó thấy thì dính líu gì đến ông. 
  • Vậy nên biết rằng đèn làm tỏ các sắc, nhưng thấy như vậy là mắt chứ không phải đèn; mắt làm tỏ các sắc, nhưng thấy như vậy là tâm chứ không phải mắt.

Ông A Nan tuy được lời Phật dạy như vậy, cùng với đại chúng, miệng tuy im lặng, tâm chưa khai ngộ, còn mong Đức Như Lai từ tâm chỉ bày, chấp tay sạch lòng, đợi Phật dạy bảo.


Khi bấy giờ Đức Thế Tôn ruỗi tay Đâu la miên sáng ngời, mở năm ngón tay, bảo ông A Nan và đại chúng rằng:

  • Lúc tôi mới thành đạo, ở trong Lộc viên, có dạy bọn ông A Nhã Đa, năm vị Tỳ kheo và tứ chúng rằng: Tất cả chúng sanh không thành đạo Bồ đề và A la hán, là do những phiền não khách trần mê hoặc. 
  • Thuở đó, bọn ông do đâu mà khai ngộ, hiện nay thành được Thánh quả?

Khi ấy ông Kiều Trần Na đứng dậy bạch Phật:

  • Tôi nay già cả, ở trong đại chúng, riêng được cái danh là Hiểu, do tôi ngộ được hai chữ khách trần mà thành chính quả.
  • Bạch Thế Tôn, ví như người khách đi đường, vào trọ quán xá, hoặc ngủ hoặc ăn, ăn ngủ xong rồi, xếp đồ lên đường, không ở yên được; nếu thật là người chủ, tự nhiên không phải đi đâu.
  • Tôi nghĩ như vầy: Không ở yên thì gọi là khách, còn ở yên thì gọi là chủ. Tôi lấy cái không ở yên làm ý nghĩa chữ khách. Lại như mới tạnh, mặt trời chiếu sáng trên cao, ánh sáng vào trong lỗ hỡ, bày tỏ hình dáng bụi trần giữa hư không. Trần thì lay động, hư không thì yên lặng.
  • Tôi nghĩ như vậy: Đứng lặng gọi là không, lay động gọi là trần, tôi lấy cái lay động làm ý nghĩa chữ trần.

Phật dạy:

  • Đúng thế.

Khi bấy giờ Đức Như Lai ở trong đại chúng co năm ngón tay, co rồi lại mở, mở rồi lại co, bảo ông A Nan rằng:

  • Nay ông thấy gì?

Ông A Nan đáp:

  • Tôi thấy bàn tay Bách bảo luân của Như Lai, ở trong chúng, lúc mở lúc nắm.

Phật bảo ông A Nan:

  • Ông thấy tay tôi ở trong chúng khi mở khi nắm, đó là tay tôi có mở có nắm hay là cái thấy của ông có mở có nắm?

Ông A Nan bạch:

  • Bàn tay báu của Thế Tôn ở trong chúng khi mở khi nắm; tôi thấy bàn tay Như Lai tự mở tự nắm, chứ không phải tánh thấy của tôi có mở có nắm.

Phật bảo:

  • Cái gì động, cái gì tĩnh?

Ông A Nan bạch:

  • Bàn tay Phật không ở yên, chứ tánh thấy của tôi còn không có tĩnh, lấy gì gọi là không ở yên nữa.

Phật dạy:

  • Đúng thế.

Lúc ấy Đức Như Lai từ trong bàn tay, phát một đạo hào quang báu qua bên phải ông A Nan, ông A Nan liền quay đầu trông qua bên phải, Phật lại phát một đạo hào quang qua bên trái ông A Nan, ông A Nan lại cũng quay đầu trông qua bên trái. Phật bảo ông A Nan:

  • Hôm nay đầu ông vì sao lại lay động?

Ông A Nan bạch:

  • Tôi thấy Đức Như Lai phát hào quang báu qua bên trái và qua bên phải của tôi nên tôi trông qua bên trái bên phải, đầu tự lay động.
  • A Nan, ông trông hào quang của Phật mà lay động cái đầu, quay qua bên phải bên trái, đó là cái đầu của ông động hay là cái thấy động?
  • Thưa Thế Tôn, đầu tôi tự động chứ tánh thấy của tôi còn không ở đâu, lấy gì mà lay động.

Phật dạy:

  • Đúng thế.

Lúc bấy giờ Đức Như Lai bảo với vả đại chúng rằng: Như các chúng sanh lấy cái lay động mà gọi là trần, lấy cái không ở yên mà gọi là khách, thì các ông hãy xem ông A Nan, đầu tự lay động mà cái thấy không lay động, lại hãy xem bàn tay tôi tự mở tự nắm mà cái thấy không ruỗi không co. Làm sao các ông hiện nay lại lấy cái động làm thân, lấy cái động làm cảnh, tự đầu đến cuối, niệm niệm sanh diệt, bỏ mất chân tánh, làm việc trái ngược; tâm tánh mất chỗ chân thật, nhận vật làm mình, xoay vần trong ấy, tự nhận lấy cái trôi lăn trong lục đạo.


NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT