Skip to content

Lược giải kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Phẩm 11: Hiện Bửu Tháp

妙法蓮華經

Lược giải kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Phẩm 11:

Hiện Bửu Tháp


Với thiện căn thuần thục và một quá trình tu học dài lâu, hàng thánh chúng từng bước theo Phật vào thế giới siêu thực, an lành. Và được Phật trao cho hành trang nhà Như Lai, áo Như Lai và tòa Như Lai, thân tâm các ngài thoạt nhiên thanh tịnh, thấy được tháp Đa Bảo hiện ra.

Đến đây, đã chuyển sang Pháp hội thứ hai là hội Không trung thuyết pháp, di chuyển chúng hội từ thế giới quan hạn hẹp của sắc thân sang thế giới quan bao la của siêu thức. Từ con người chỉ sinh hoạt với sự hiểu biết của Thức uẩn, hành giả hạ thủ công phu tu tập thiền định. Đạt tới trạng thái diệt tận định, các lỗi lầm đã hết, không còn phiền não, mới có khả năng tham dự Pháp hội thứ hai. Đó là Pháp hội của những người có đầy đủ thần lực thu ngắn sáu mươi tiểu kiếp bằng khoảng một bữa ăn, một Pháp hội mà hành giả bước vào bằng con người tâm linh sống với trực giác, không phải từ con người vật chất bước vào thế giới ảo tưởng.

Chúng phàm phu chỉ sống với quyền lợi thực tế, không thể nào theo chân Phật tham dự Pháp hội thứ hai, giống như năm ngàn Tỳ kheo tăng thượng mạn đã bỏ đi khi nghe Phật nói phẩm Phương Tiện.

Thâm nhập Pháp hội thứ hai, hành giả đã nâng được tầm vóc, tâm từ bi của hành giả mở rộng hoàn toàn. Ví như đang đứng ở địa vị của đấng tạo hóa nhìn xuống thương xót cho những con người nhỏ bé đầy nghiệp chướng. Ở trên cuộc đời không còn gì chướng ngại, tất cả đều tùy thuận theo ý muốn của hành giả.

Ngoài ra, an trụ được pháp Không, hành giả thành tựu tất cả việc, nhưng không bị vướng mắc việc gì. Có bao nhiêu công đức, hành giả hồi hướng Phật đạo, chan hòa cho tâm người từ đời này sang đời khác. Pháp Không là trạng thái tâm chứng, không phải trạng thái vật lý. Làm việc đến mức tan biến con người mình vào vũ trụ bao la, tan biến vào lòng người, chắc chắn người đó phải hiện hữu và sinh hoạt ở một dạng khác.

Trụ pháp Không hay trụ đại thiền định, không bị thân vật chất chi phối, tất nhiên hành giả cũng phải có một thế giới quan khác với thế giới chúng ta đang sống. Trang nghiêm thân tâm như vậy, hành giả nhìn vật không giống kẻ đầy đủ ngũ dục thấy, vì đã vượt ra ngoài sanh tử luân hồi mà quan sát ngược lại sanh tử luân hồi. Thân tâm của hành giả hoàn toàn tự tại và hoàn cảnh không còn chướng ngại đạt tới Bất Nhị Pháp môn. Đối với hành giả, hai mặt của cuộc đời, bỉ ngạn thử ngạn, hay thế giới hiện tượng và thế giới siêu thực thông thành một cõi.

Lúc ấy, đột nhiên tháp Đa Bảo hiện ra cao mười hai cây số, rộng sáu cây số, không thể nghĩ bàn. Ý này được kinh Thủ Lăng Nghiêm diễn tả bằng câu: “Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc, thanh tịnh bản nhiên, châu biến Pháp giới” (đã giải thích trong phẩm 10). Chỉ có thể dùng mắt huệ, hay mượn Như Lai huệ mới thấy tháp Đa Bảo và Phật Đa Bảo hiện ra trong Chơn không.

Ở thế giới sắc chất hạn hẹp, không thể nào có tháp Đa Bảo. Tháp Đa Bảo và Phật Đa Bảo đều hiện hữu trong thế giới hoàn toàn thanh tịnh, được tinh luyện thành bảy báu. Thế giới bảy báu này rất thật, không phải trừu tượng. Nó hình thành từ sự Giác ngộ của Đức Phật mà kinh Lăng Nghiêm gọi là “Không sanh đại giác trung”. Nghĩa là Đức Phật bằng trí huệ Giác ngộ, khám phá được nguyên lý, theo đó vũ trụ và con người đều sanh ra từ chơn không. Thế giới hiện tượng nằm trong Không và từ Không hiện Có. Đức Phật truyền tâm cho thánh chúng thấy được thế giới Không này rất đa dạng và đó mới là Pháp Hoa chân thật. Hàng La hán thâm nhập thế giới Không, nên tin được những điều Phật dạy.

Tri kiến Phật đem dạy cho chúng ta được tạm ví như sự hiểu biết của nhà khoa học thấy được trong lòng đất chứa nhiều của báu; nếu biết khai thác, đem lại lợi ích giàu có. Tất nhiên phải ở trình độ tương đối nào mới có thể hiểu được và tin được những gì mà nhà khoa học khám phá. Từ thế giới Ta Bà nhơ uế lồi lõm, Phật chuyển nó thành thế giới thất bảo, tương tự như nhà bác học biến chế than đá thành thực phẩm vậy.

Hội đủ điều kiện tất yếu nói trên, mới đủ tư cách nghe pháp chân thật mầu nhiệm của Phật Thích Ca và Phật Đa Bảo nói với nhau trong hội Không trung thuyết pháp. Trái lại, mang thân Ngũ ấm tràn đầy phiền não tham chấp mà kiến giải hiện tượng Bảo tháp, cho là một hiện tượng không tưởng, hoặc Phật hóa tâm mình, hay có tánh cách giả dụ. Đó là những kiến giải hoàn toàn sai lầm, kiến giải của những con người chưa vào nhà Như Lai, chưa mặc áo Như Lai và chưa ngồi tòa Như Lai.

Phật Đa Bảo đã thành Phật, ở trong cảnh giới Phật và có thần thông diệu dụng như chư Phật. Một ngày nào đó, chúng ta thành Phật, cũng sẽ có đủ pháp tự tại bất tư nghì như Đức Đa Bảo. Nhưng còn là phàm phu đầy nghiệp lực, thì không thể nào quy tháp Đa Bảo về tâm ô trược này.

Đức Phật Đa Bảo nhập diệt từ lâu và có nguyện hiện ra để mọi người tin nhận. Nếu chưa đủ trình độ để nhìn thấy tháp Đa Bảo thật, thì tùy theo sự tu chứng của mỗi người mà có tháp Đa Bảo khác nhau. Theo ngài Nhật Liên, tu hành trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn của đời ngũ trược ác thế, mỗi lần có một thiện tri thức đến giúp đỡ, hoặc tùy hỷ, hay thâm nhập được pháp, là hành giả đã thấy tháp Đa Bảo hiện ra. Vì thực sự mang thân phận phàm phu còn dầy đặc phiền não, thì không thể nào thấy tháp Đa Bảo.

Riêng đối với tôi, những điều chưa hiểu, chưa chứng nghiệm, thì tự nhận mình không biết, không hiểu. Không nên phủ nhận, nhất là phủ nhận một điều do Phật nói ra. Khi tôi thuyết pháp, đại chúng nghe và tin nhận được, nghĩa là vô hình trung, tôi thuyết pháp có tháp Đa Bảo xuất hiện làm chứng tín. Tuy nhiên, muốn đạt kết quả này, tôi phải có một quá trình bốn mươi năm tu học. Bốn mươi năm tu học thay cho tháp Đa Bảo vô hình, để chứng minh điều tôi nói đúng và có giá trị.

Khi tháp Đa Bảo hiện ra, ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ tát đại diện chúng hội bạch Phật muốn thấy Phật Đa Bảo. Đức Phật liền phóng quang tập trung phân thân của Ngài trong mười phương về để mở tháp. Lần phóng quang này khác lần đầu trong phẩm Tựa, Phật phóng quang cho chúng hội thấy chư Phật, Bồ tát đang hành đạo trong mười phương để chúng hội phát tâm. Lần này chuyển Ta Bà thành Tịnh Độ, tám phương dung chứa phân thân Phật cũng chuyển thành Tịnh Độ…

Nhân dịp tháp Đa Bảo xuất hiện, Phật Thích Ca giới thiệu cho chúng ta phân thân của Ngài trong khắp mười phương. Từ trước, chúng ta vẫn tưởng ở Ta Bà chỉ có một Phật Thích Ca. Nhưng nay Phật cho biết Ngài phải tập trung phân thân để tháp Đa Bảo hiện ra. Điều này gợi ý rằng muốn thành Phật phải có nhiều thân hay thiên bá ức hóa thân thuyết pháp mười phương. Nếu chỉ có một thân là Bích chi Phật hay Độc giác Phật.

Phật tại thế, Thiên ma ngoại đạo không nhiễu hại Ngài được. Người thương Phật theo làm đệ tử và cả người chống phá cũng trở thành đệ tử. Phật Thích Ca có vô số đệ tử, nên phải có vô số phân thân khác nhau, thì mới vừa lòng được từng người. Vì vậy, Ngài được tôn danh là bậc Điều Ngự Trượng Phu.

Phật biết rõ căn tánh hành nghiệp của chúng sanh, giáo hóa tất cả không chướng ngại, thể hiện rõ rệt phân thân Phật giáo hóa thích ứng cho từng loại hình, ngay cả thích ứng với từng cá nhân một, từng hoàn cảnh một. Và cho đến ngày nay, tầm giáo hóa của Phật vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ khắp mọi nơi. Dù chúng ta ở đâu cũng là Phật tử, là đệ tử của Phật Thích Ca, chứng tỏ sâu sắc rằng phân thân Phật còn hiện hữu tồn tại trên thế gian này. Nơi nào có đạo Phật, nơi đó có Phật Thích Ca phân thân thuyết pháp giáo hóa.

Phật phân thân giáo hóa mười phương tùy theo nhân duyên, tùy theo cơ cảm của đối tượng, nên giáo pháp này mất tính chất thuần nhất, trở thành pháp phương tiện. Pháp thuần nhất hay chân lý chỉ có một, thể hiện bằng sự lặng thinh giữa Thích Ca Như Lai và Đa Bảo Như Lai.

Tuy phân thân Phật trải ra khắp mười phương, mà Ngài tập trung các phân thân này trong chớp mắt. Có nghĩa là mỗi người đều thấy Phật là cha mình, của riêng mình, nhưng Phật vẫn là Phật, không vướng bận một chúng sanh nào. Nói cách khác, Phật xuất hiện vào lòng mọi người và tùy thuận với họ, được tiêu biểu bằng Liên Hoa. Ngài tùy thuận nhưng không bị người chi phối làm mất bản vị giải thoát của Như Lai, tiêu biểu cho phần Diệu pháp.

Đức Phật Thích Ca thành tựu sự kết hợp giữa Diệu pháp và Liên Hoa, hay giữa bản thể và sanh diệt, thể hiện hành giả Pháp Hoa kiểu mẫu ở Ta Bà. Ngài là Pháp sư thuyết Pháp Hoa bằng cả ngôn ngữ, tâm hồn và cuộc sống thánh thiện siêu tuyệt.

Muốn đạt đến thành quả này, trong kinh ghi rõ hành giả cần hội đủ những điều kiện hết sức cao. Thứ nhất phải có tháp Đa Bảo xuất hiện. Tháp Đa Bảo hay đó là kết quả của nhân địa tu hành Bồ tát đạo mà Đức Thích Ca Như Lai tích lũy nhiều đời. Trong kinh tiêu biểu bằng hình ảnh tháp Đa Bảo có vô số phòng ốc tốt đẹp. Điều thứ hai quan trọng hơn nữa là hành giả phải có phân thân và tập trung được phân thân.

Khi phân thân Phật tập hợp, Phật dời trời người đi chỗ khác, mà họ không hề hay biết. Sự kiện trời người không hay biết mình bị dời chỗ, thường được kiến giải bằng thí dụ con kiến ở trên trái bưởi không hề biết nó bị di chuyển khi chúng ta mang trái bưởi đặt nơi khác.

Tháp Đa Bảo trụ ở hư không đồng với pháp mà chúng Tăng đang an trú pháp Không. Thần lực của Phật tạo cho chúng hội một thân kỳ diệu để du hóa trong thế giới Phật. Thoạt nhiên, tất cả đều Không, chỉ có Bảo tháp hiện ra. Đạt đến cái Không này, hành giả mới có Diệu hữu của Pháp Hoa.

Trước đó, Phật cởi chuỗi anh lạc mặc áo vải thô, cầm bình bát đi khất thực mỗi ngày; cho nên chúng hội tưởng lầm Phật cũng chỉ có một thân phàm giống như họ. Đến Pháp hội thứ hai, Phật mới hiển thần lực cho mọi người thấy thân thứ hai của Ngài, một Báo thân viên mãn diệu dụng. Và Phật dẫn họ vào thế giới thuần tịnh không có ba đường ác và cả trời người cũng không đến được. Ở Pháp hội thứ hai, những tâm hồn đau khổ là tính chất để tạo nên thế giới Ta Bà đau khổ không còn, thì Ta Bà tự mất và chuyển thành Tịnh Độ. Ngài Trí Giả thấy được Báo thân thuyết pháp, nói rằng Pháp hội thứ hai chưa tan.

Sự hiển bày thần lực của Phật cùng với sự khẳng định rằng mọi người đều là Phật, là điều vượt ngoài sự suy tư, hiểu biết của phàm phu; cho nên Phật Đa Bảo phải hiện lên làm chứng tín. Vì vậy từ phẩm 10 trở về trước được xem là phương tiện, chuẩn bị đưa chúng hội vào thế giới Pháp Hoa. Và đến phẩm “Hiện Bảo Tháp” mới nói Pháp Hoa chân thật. Chúng sanh đời trược ác, nghiệp dầy phước mỏng không tin Đức Thích Ca thành đạo ở cõi Ta Bà, huống chi những hiện tượng thiên nhiên như Bảo tháp hiện ra, hay Phật phóng quang tập trung phân thân trong mười phương, hoặc mọi người có điều kiện để thành Phật. Những điều này đều khó tin, khó chấp nhận; vì chúng ta chưa thấy, chưa đủ trình độ. Đừng nghĩ rằng những việc ấy không có. Mọi người có trình độ khác nhau, thế giới quan cũng theo đó mà đổi thay. Người có trình độ cao tất nhiên sẽ thấy và tin được những điều cao. Người kém chỉ thấy sự vật ngay tầm mắt của họ. Ví như có người suốt đời chưa ra khỏi thôn ấp mình sống, nghe kể lại sự văn minh tiến bộ của nước khác, thì họ cũng không tin được.

Đức Thích Ca xác nhận trong phẩm “Phương Tiện” rằng những thần bí của Ngài và Đức Đa Bảo, chỉ có chư Phật mới hiểu nguồn gốc tận cùng của các pháp và sử dụng trọn vẹn các thần bí này. Hàng Bồ tát trở xuống nhiều như lúa mè cũng chỉ hiểu được một phần nhỏ.

Tháp Đa Bảo hay kho báu xuất hiện, vấn đề quan trọng là mở kho và sử dụng của báu trong đó. Ai mở được và sử dụng được tháp báu này. Trong Ta Bà duy nhất có Thích Ca Như Lai đủ khả năng mở kho tàng của chư Phật và sử dụng được tất cả công đức tích lũy của chư Phật. Đến phẩm này, chúng ta mới thấy tư cách siêu việt của Đức Thích Ca. Ngài mở kho bí mật của ba đời mười phương chư Phật và lấy của báu chia đều cho Thanh văn, Bồ tát. Người tu nhiều hưởng nhiều, tu ít hưởng ít. Ai cũng được chút pháp phần để sống an vui.

Tháp Đa Bảo mở ra và Thích Ca Như Lai vào ngồi chung tòa với Đa Bảo Như Lai. Hình ảnh một Phật quá khứ và một Phật hiện tại cùng ngồi chung trong tháp báu. Hay đó là sự kết hợp giữa người chết và người sống để chứng minh rằng Pháp Hoa được hình thành từ sự tổng hợp trí huệ của Phật Đa Bảo quá khứ xa xưa với trí huệ hiện thực mười phương của Phật Thích Ca.

Theo ngài Từ Ân, hai Phật ngồi chung nói lên tư tưởng cổ kim bình đẳng Bất Nhị. Phật xưa, Phật nay và mãi về sau, ba đời các Đức Phật đều bình đẳng, đều có đầy đủ mười hiệu như nhau. Tuy nhiên, cần hiểu rằng Phật xác nhận sự bình đẳng trên chân lý. Nghĩa là thành Phật thì giữa Phật với Phật mới ngang nhau, không phải bình đẳng trên thực tế; vì thực tế thuộc về sai biệt giới, làm sao bình đẳng được.

Trên chân lý, Phật dạy rằng chúng ta có khả năng thành Phật, nhưng thực tế chúng ta chưa là Phật. Dù có cho bình đẳng với Phật, chúng ta cũng không thể nào lên ngồi chung với Phật Đa Bảo. Vì tháp Đa Bảo chẳng bao giờ mở ra cho những thân phận phàm phu nghiệp chướng bước vào. Đó là chưa nói đến người tội lỗi sâu nặng không thể nào thấy được tháp, huống chi là mở tháp và sống trong tháp.

Pháp của Phật Thích Ca và Đa Bảo nói với nhau trong yên lặng, hành giả không thể biết được. Sau đó, nghe Phật Thích Ca thuật lại rằng tất cả cái khó của thế gian mà ma, Phạm, Sa môn làm được thì không khó. Pháp của Phật nói cho Phật Đa Bảo nghe được mới là điều khó.

Pháp khó nghe, khó hiểu, khó nhận, khó tin này là sự thật mà Đức Đa Bảo đã chứng nghiệm rằng thành tựu chúng sanh là thành tựu Pháp thân, kiến tạo Phật độ.

Phật xác định ta không thể thành Phật bằng một thân nào khác, ngoài thân Ngũ ấm chúng sanh và ta chỉ thành Phật ngay trên nhân gian, vì đây là môi trường thích hợp nhất cho việc thành tựu quả vị Như Lai. Tất cả hàm linh khác không thể thành Phật được, vì không có Ngũ ấm thân. Riêng loài người mang thân Ngũ ấm, nhưng không biết cách sử dụng, để tạo muôn ngàn tội lỗi. Dưới mắt của người trình độ thấp, thì thân này nguy hiểm. Tuy nhiên, biết sử dụng đúng pháp, thân người sẽ trở thành dụng cụ tốt nhất cho việc chứng đắc quả vị Vô thượng Bồ đề.

Trong mọi thứ hiện hữu ở nhân gian, sự tồn tại của con người là quý giá nhất. Từ trước đến nay, đối với người tham đắm thân vật chất và chạy theo dục vọng do thân đòi hỏi, Phật phải dạy thân người nhơ uế, vô thường, không quý. Nhưng đối với người không còn bị sắc thân chi phối, có đời sống tâm linh thanh tịnh, Phật mới dạy thân người là quý, vì sự cấu hợp của thân người hết sức đặc biệt tinh vi mà các loài khác không có. Thân người ví như một nhà máy nguyên tử, cho ăn một số lượng thực phẩm và sẽ thải ra những cặn bã phân, nước tiểu, mồ hôi,… Đó là nhà máy thân người thải ra phóng xạ và cung cấp cho ta trí khôn và tình cảm thật quý giá, đó là những yếu tố cần thiết giúp chúng ta thành Phật. Trong khi các loài sanh vật khác cũng cung cấp cho chúng lượng thực phẩm, nhưng chúng chỉ thải ra cặn bã. Các loài khác sanh diệt theo bản năng tự nhiên mà thôi, không có tình cảm cao thượng và trí khôn như loài người.

Phật nhìn thấy loài người không biết sử dụng điều kiện thành Phật, mà để thành chúng sanh đau khổ. Phật Thích Ca cũng từ thân Ngũ ấm, nhưng không qua màn lọc tham lam của chúng sanh. Ngài an trú từ bi, nhẫn nhục và thâm nhập thiền định, nên biết được sự diễn biến trong vũ trụ từ quá khứ đến tận vị lai, trở thành Thầy của trời người. Phật nhờ nương thân Ngũ ấm tu tập thành tựu Pháp thân. Ngài muốn chỉ cho mọi người thấy Pháp thân khó thấy, khó hiểu, nên Phật Đa Bảo mới hiện lên làm chứng tín.

Hành giả chưa thành tựu ba pháp ấn là nhà Như Lai, áo Như Lai, tòa Như Lai, nên tháp Đa Bảo không thể hiện ra. Tuy nhiên, trên bước đường tu, chợt một phút giây nào, hành giả nghe được mùi hương qua tâm thức khi an trú pháp Không. Khi ly được trần cấu, không còn đau khổ và hưởng được niềm vui vô tận của cõi trời, hành giả đã gián tiếp tham dự Pháp hội. Từ đó, hành giả cảm nhận được hiện tượng Bảo tháp không diễn ra trong thế gian, nhưng linh hoạt trong tiềm thức. Một cận vệ của Thiên hoàng là A Phật Phòng ra đảo giết ngài Nhật Liên, nhưng ông đã cảm nhận được điều này, nên liền buông dao xin làm đệ tử khi được ngài khai ngộ bằng câu “Tháp Đa Bảo là ông và ông là tháp Đa Bảo. Bỏ ông, ta không có tháp Đa Bảo”.

Chúng ta mang thân phàm phu muốn thấy tháp Đa Bảo phải tập trung tư tưởng, nghĩa là an trú pháp Không và thâm nhập cảnh giới thiền định để phát sanh Như Lai huệ và dùng Như Lai huệ quan sát Pháp giới. Đây là việc khó làm, nên Phật dạy ở thời mạt pháp, ai muốn trì được kinh Pháp Hoa, phải phát đại nguyện trước Đức Thích Ca và Phật Đa Bảo.

Trong phẩm này, Phật đưa ra chín điều dễ và sáu điều khó làm. Giả sử có người đem núi Tu Di ném qua phương xa không khó, hoặc nói 84000 Pháp môn sai biệt làm cho vô số chúng sanh chứng quả A la hán cũng chưa khó. Sau khi Như Lai diệt độ, vì người nói kinh Pháp Hoa này mới khó. Nói cho một người nghe hiểu và thực hành pháp này khó. Vì thực sự nghe được pháp mầu, điều trước tiên, phải xa rời cấu nhiễm, thân tỏa mùi hương, không còn buồn phiền và sau đó luôn an trú thế giới Phật.

Giả sử gặp kiếp thiêu, hỏa tai, thủy tai, đao binh tai, lửa tự nhiên đốt cháy tới trời Tứ Thiên vương, thủy tai tới trời Dạ Ma, binh tai tàn phá tới trời Sắc Cứu Kính. Nói chung, thế giới bị tàn phá thành năng lượng, sụp đổ hoàn toàn, có một người mang cỏ khô ngang qua không bị cháy thì cũng không khó. Sau khi Phật diệt độ, người trì kinh này vì một người mà nói mới là khó. Cỏ tiêu biểu cho chúng sanh liên hệ với ta. Cõng một người tham vọng dễ bị thiêu đốt mà Phật nói không khó. Tuyên nói được pháp chân thật này mới khó, nên phải phát nguyện trước Như Lai.

Sáu điều khó làm được Phật nêu lên là cái khó của việc trì kinh Pháp Hoa ở thế gian. Sáu điều khó làm so với chín điều dễ gợi cho chúng ta suy nghĩ kinh Pháp Hoa là gì và trì kinh Pháp Hoa như thế nào mà khó quá vậy. Trên bước đường tu, tôi cảm nhận sâu sắc sự khó khăn vô vàn của Đức Phật nêu ra. Thật vậy, tự tôi thanh tịnh không khó, nhưng làm cho người thanh tịnh, hết phiền não không đơn giản. Tự tôi phát triển tri thức, thâm nhập cảnh giới Phật không khó, nhưng dẫn người cùng vào sống trong thế giới tri thức như mình, là cả vấn đề khó thực hiện. Hàng A la hán tự đoạn sạch phiền não không khó, nhưng giúp cho tha nhân cùng vào Niết bàn thành La hán như các ngài, quả thật là khó.

Ngày nay, chúng ta sống trong thời đại văn minh khoa học, thường chủ trương làm cho mọi người được hạnh phúc. Tuy nhiên, trên thực tế, việc phát triển một nước cho sung túc hạnh phúc đã khó; huống chi thịnh vượng hóa toàn thể quốc gia trên địa cầu này. Ở đây chỉ mới đề cập đến phần phát triển vật chất đã không thực hiện nổi; nói gì đến phát huy vật chất và tâm linh như Đức Thích Ca chuyển Ta Bà thành Tịnh Độ.

Hành giả Pháp Hoa đời sau muốn đủ tư cách thọ trì kinh Pháp Hoa, nghĩa là thừa kế sự nghiệp của Đức Như Lai, chẳng những phải thành tựu bằng như Phật Thích Ca, còn đòi hỏi chúng ta phải vượt trội hơn cả Ngài. Điều khó khăn này ắt hẳn không đủ ngôn từ để diễn tả.

Trì kinh Pháp Hoa thực sự quá khó khăn, vì kinh Pháp Hoa là sự kết hợp giữa thể và dụng của các pháp. Do đó, duy trì Pháp Hoa tồn tại phải là người kết hợp được thế giới hiện thực và thế giới của bản thể. Hai thế giới này có thể được họ chuyển đổi qua lại một cách tự tại. Ở Ta Bà, có Đức Thích Ca là người tiêu biểu thể hiện trọn vẹn công việc kết hợp này. Ngài đã trụ Niết bàn hơn hai mươi lăm thế kỷ, mà vẫn giáo hóa chúng ta an lành trên nhân gian.

Trên bước đường tiến đến Vô thượng Chánh đẳng giác, Bồ tát là nhân và Phật là quả. Hành giả phát nguyện tu phần nhân hạnh của Bồ tát để lợi ích ở trần gian, vẫn không bị trần gian làm nhiễm ô. Và đạt đến phần quả đức, dù hành giả ở thế gian, hay vào Niết bàn cũng mang lợi ích cho trời người trong mười phương. Giống như quả đức của Phật Thích Ca vẫn còn liên hệ đến sinh hoạt thế gian của chúng ta ngày nay qua sự thông suốt giữa tâm đại bi của Phật và chúng ta.

Thực hiện sự kết hợp toàn vẹn hai phần nhân hạnh và quả đức, hành giả mới là vị lai Phật nhận lãnh sự chúc lụy trước Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca. Nói cách khác, hành giả trì kinh Pháp Hoa phải có tư cách vị lai Phật, là người có khả năng tổng hợp tri thức của Phật quá khứ Đa Bảo và Phật Thích Ca hiện tại để phát sanh ra tư tưởng chỉ đạo, đáp ứng lợi lạc cho mọi người.

Phật phú chúc cho người thể hiện ý nghĩa như vậy. Riêng chúng ta chưa đầy đủ nhân hạnh của Phổ Hiền, dù chúng ta chỉ tạm trì thôi, thiết nghĩ Phật cũng rất hoan hỷ với phần nhân hạnh nhỏ bé của chúng ta. Vì hơn ai hết, Ngài thấu rõ khả năng của chúng ta quá yếu so với công việc quá lớn lao mà Ngài giao phó.

Đối trước sự khó khăn muôn vàn của việc thọ trì kinh Pháp Hoa, Phật kêu gọi Bồ tát hãy phát nguyện. Bồ tát phát nguyện thọ trì kinh Pháp Hoa trước hai Đức Như Lai là Bồ tát tâm. Các ngài đã vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai, đã thấy tháp Đa Bảo, nên phát nguyện trực tiếp và nay hiện hữu để tuyên pháp mầu là điều đương nhiên. Điển hình như ngài Nhật Liên đã phát nguyện từ thời Đức Thích Ca. Ngày nay sanh lại, ngài làm được tất cả việc mà người thường không làm được. Pháp Hoa của ngài lìa văn tự và thể hiện qua cuộc sống một cách trọn vẹn. Tuy đã vào Niết bàn hơn bảy trăm năm, những điều mà ngài dạy vẫn tác động một cách mãnh liệt và tốt đẹp cho cộng đồng nhân loại.

Đối với hành giả Pháp Hoa ngày nay, chưa vào được cảnh giới chư Phật, nhưng chúng ta nương vào hiện tượng mầu nhiệm này, bước theo chân các ngài, thoát khỏi cảnh ô trược, để xây dựng một thế giới an lạc cho chính mình và cho một số người chung quanh. Từ đó, cảm nhận được thiện ác, uế tịnh đều do chúng ta tạo ra. Ví dụ thức ăn là vật tịnh trước khi ăn, nhưng sau khi ăn thì trở thành uế. Tuy vậy, người văn minh vẫn biến chế được vật uế thành hữu dụng.

Quan Thế Âm Bồ tát diễn tả một phần về thật tướng pháp trong Tâm Kinh khi ngài quan sát các hiện tượng trong vũ trụ, thấy tất cả đều do nghiệp lực hay nguyện lực mà chuyển đổi. Thiện ác cũng vậy, biến đổi không cùng, tùy theo nghiệp của chúng sanh. Tuy cùng một vật, nhưng người văn minh biết sử dụng sẽ tạo nên tiện nghi. Người kém hơn sẽ biến chế thành vật thô sơ hơn và đối với người có trình độ thấp hơn nữa, sẽ trở thành vật chướng ngại. Thí dụ nếu không phải là người văn minh biết kết hợp xi măng và cát, tìm quặng mỏ làm sắt,… sẽ không có các tòa nhà cao tầng. Nếu cũng những vật này ở trong tay người lạc hậu, chẳng những là vật vô dụng mà còn chướng ngại cho họ.

Chư Phật và Bồ tát thấy được thật tướng các pháp, sử dụng được toàn vẹn các hiện tượng trong vũ trụ, tạo thành lực dụng bất khả tư nghì trang nghiêm bản thân và quốc độ. Chỉ một niệm tâm của các ngài, Ta Bà liền chuyển thành Tịnh Độ.

Trên dòng sanh mạng tương tục của hành giả Pháp Hoa, trước khi sử dụng được quy luật biến chế như chư Phật, chúng ta phải triệt để phát huy tinh thần lợi tha vô ngã. Trên căn bản phước đức và trí huệ, chúng ta kiến tạo thế giới an lành và xã hội tình người, đem an vui cho muôn loài mọi giới.


66b95280279eec88f2c6c3d3d4af3e58

Hòa thượng Thích Trí Quảng (1938~)