Skip to content

Lược giải kinh Duy Ma Cật – Chương 2: Phương Tiện Huyền Xảo

維摩詰所說經

Lược giải kinh Duy Ma Cật

Chương 2:

Phương Tiện Huyền Xảo


Sau khi dạy cách thức kiến tạo Tịnh Độ nhân gian, Phật giới thiệu cư sĩ Duy Ma Cật bệnh sắp chết trong phẩm này. Tại sao cư sĩ Duy Ma lại xuất hiện trong phẩm “Phương Tiện” và phương tiện này mang ý nghĩa gì. Câu trả lời chính là nội dung của phẩm này, sẽ kiến giải dưới đây.

Thông thường, chúng ta hay chạy tội bằng cách đổ thừa sự sai lầm của mình là phương tiện. Hoặc khi cần biện minh cho việc nói láo, chúng ta cũng cho đó là phương tiện. Phương tiện của Phật không thể hiểu như vậy.

Phương chỉ cho không gian, tiện là thời gian hay tiện nghi. Phương tiện là những gì chúng ta thiết đặt, sắp xếp khác nhau, tùy theo hoàn cảnh và thời gian để đưa đến cứu cánh giải thoát.

Khi Phật tại thế, Ngài tùy theo đối tượng, tùy thời, tùy chỗ, giảng pháp không đồng nhau. Các pháp sai biệt là pháp phương tiện. Vì để đáp ứng nhu cầu của nhiều người, ở nhiều trình độ trong những hoàn cảnh và thời gian khác nhau, pháp phương tiện trở thành vô số. Kinh thường ghi rằng 84000 Pháp môn tu là phương tiện giúp hành giả đạt cứu cánh giải thoát Niết bàn. Có thể nói phương tiện ví như dụng cụ và mục tiêu là cứu cánh.

Phật và chư Bồ tát đã giải thoát, sử dụng giáo pháp như phương tiện để giáo hóa chúng sanh, khác với người chưa đắc đạo dùng Pháp môn tu như phương tiện để giải thoát.

Vấn đề phương tiện cũng được đề cập trong kinh Pháp Hoa phẩm thứ 2 theo đó, Pháp thân Phật bất sanh bất diệt phải hiện thân con người tu đắc đạo mới chỉ cho chúng ta thấy được vị Phật vĩnh hằng để hướng tâm về. Phật sanh diệt Thích Ca Mâu Ni ở trên cuộc đời là Phật phương tiện dẫn chúng ta đến cứu cánh quy ngưỡng Đức Phật hằng hữu bất tử.

Ngoài ra, kinh Pháp Hoa cũng chỉ rõ giáo pháp Phật ứng với ba trình độ Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, nên từ Nhất Phật thừa chân thật, Ngài phải khai phương tiện thuyết Tam thừa. Trở về kinh Duy Ma, chúng ta quan sát xem phương tiện được diễn tả như thế nào.

Duy Ma Cật, một tên được dịch theo âm chữ Phạn, nếu dịch theo nghĩa, ngài còn có tên là Tịnh Danh. Duy Ma cư sĩ được xem là phương tiện của Phật khi ông xuất hiện trên cuộc đời, một phương tiện thể hiện qua cuộc sống thật của con người trong xã hội và cũng nhằm mục tiêu chứng minh Bồ tát hạnh mà Phật Thích Ca tu trong quá khứ và nay Duy Ma thể hiện Bồ tát hạnh trong hiện tại. Nói cách khác, Phật lấy hiện tại để chứng minh quá khứ của Ngài.

Vấn đề phương tiện đặt ra khiến chúng ta nghĩ đến thế đối lập của nó là cứu cánh. Duy Ma hay Tịnh Danh cư sĩ trụ ở thế giới của Phật Vô Động. Phật thì vô động và Bồ tát thì thanh tịnh. Hai hình ảnh này gợi cho hành giả hình dung một thế giới hoàn toàn an lành hay thế giới tu chứng của chư Phật và Bồ tát.

Từ thế giới hoàn toàn trong sạch ở phương Đông, Duy Ma rời bỏ thế giới đó để hiện thân trên cuộc đời làm cư sĩ, hay từ không sanh tử hiện làm người ở sanh tử. Như vậy cứu cánh của ngài là thế giới Diệu Hỷ thanh tịnh của Phật Vô Động và mang thân cư sĩ làm đủ việc ở thế gian được coi là phương tiện của Duy Ma.

Thế giới Diệu Hỷ của Phật Vô Động gợi cho chúng ta ít nhiều suy nghĩ. Hỷ là lòng vui mừng, lòng hành giả luôn hoan hỷ với mọi người, không buồn, không giận, không động.

Duy Ma ở với Phật Vô Động thường an trụ trong ba pháp căn bản là người khen chẳng mừng, chê chẳng giận, người thờ ơ cũng không quan tâm. Hành giả khởi tu ở Ta Bà cần lưu ý điểm này. Khi nương với Phật Vô Động nghĩa là hành giả cần giữ cho tâm hồn yên tĩnh, đừng vui buồn động loạn theo tiếng khen chê của thế gian. Người xưa cũng dạy “Thị phi tiếng rụng theo hoa sớm”.

Tâm không động để làm chủ được bản thân. Hành giả biết rõ vui buồn thương ghét khởi lên đều kéo chúng ta rời bản vị giải thoát, rơi vào trần lao sanh tử. Ở trạng thái tâm vô động, hành giả mới hưởng được niềm vui không lệ thuộc cuộc đời, bước vào thế giới Diệu Hỷ. An trú trong thế giới này, hành giả sẽ phát hiện được Phật tri kiến, hay tạo được tự thọ dụng thân. Tự thọ dụng thân khác với tha thọ dụng thân.

Tha thọ dụng thân chỉ cho thân Tứ đại Ngũ ấm của con người. Muốn giữ cho thân Tứ đại sống, chúng ta phải cung cấp cho nó liên tục mỗi ngày một số đồ ăn thức uống. Và Ngũ ấm thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy, chúng ta luôn tiếp xúc với cuộc đời, luôn suy nghĩ, nhận thức. Chỉ khi nào chúng ta chết, thì Ngũ ấm mới ngưng hoành hành.

Duy Ma hay Tịnh Danh sống với Phật Vô Động đã lìa Ngũ ấm, vấn đề tiếp tế cho Ngũ ấm thân không còn. Nghĩa là vui buồn vinh nhục của cuộc đời không còn làm hoen ố bản tâm ngài. Thiên nhiên, xã hội, hoàn cảnh,… nói chung, những gì bên ngoài không tác động Duy Ma và ngài cũng không cần nương tựa nó để sống. Như vậy đối với ngài, tha thọ dụng thân đã chấm dứt, Duy Ma chỉ sinh hoạt với tự thọ dụng thân là Phật tri kiến.

Ngược lại, phàm phu luôn sống với tha thọ dụng thân, hay mượn bên ngoài làm mình, rồi đem nó bao vây trói chặt tự thọ dụng thân, quên mất bản tâm. Thật vậy, chúng ta là chủ, nhưng lại lấy khách làm mình. Mỗi ngày ăn một số lượng thực phẩm vào cơ thể, nuôi lớn thân vật chất Tứ đại và nhận lầm nó là con người thật của mình. Thức ăn vật chất đem vô sản sinh ra yếu tố tâm lý là nhận lãnh, hưởng thụ, suy nghĩ, hành động, hiểu biết, phân biệt,… Tất cả những thứ này là hành trang càng ngày góp nhặt càng nhiều hơn theo bước chân tiếp xúc với cuộc đời của chúng ta. Nó ở trong chúng ta lâu ngày, xâm lấn toàn bộ thân tâm đến độ chúng ta lầm nó là Ta. Chẳng khác gì người ở trọ chiếm lần nhà, đến khi chủ nhà không còn một góc để dung thân. Đó là những tên giặc sắc, thọ, tưởng, hành, thức quấy nhiễu che lấp chân thân bên trong của chúng ta. Vì vậy, người nào còn vướng mắc, chấp vào Tứ đại Ngũ ấm là Ta, họ sẽ lệ thuộc hoàn toàn bản thân, xã hội và thiên nhiên. Càng nô lệ nhiều chừng nào, chúng ta càng trở nên nhỏ bé; vì đối với vũ trụ bao la trong thời gian vô tan, không gian vô cùng, thì chúng ta có nghĩa lý gì.

Duy Ma nhắc nhở rằng mạng sống con người quá ngắn ngủi so với thời gian vô tận. Đem cái thân Tứ đại Ngũ ấm mỏng manh này đi vào vũ trụ bao la không cùng mà chinh phục thiên nhiên, thì chúng ta chỉ là hạt cát trong sa mạc. Việc trước mắt cần nhổ ngay mũi tên độc sanh tử đang ghim vào người. Sự hiểu biết của ta về Pháp giới thật là ít ỏi, chẳng thấm vào đâu, mà mang tham vọng lớn chỉ phí công, nuốt hận chui xuống mồ.

Ngoài ý tưởng chinh phục thiên nhiên, chúng ta sử dụng Tứ đại Ngũ ấm để chinh phục xã hội cũng không hợp lý. Vì không thể nào bắt người khác làm theo mình, khi sự hiểu biết và hoàn cảnh của mỗi người không giống nhau. Chúng ta tu hành chỉ có cách duy nhất phải chinh phục chính bản thân và tham vọng của mình, xóa sạch những gì đòi hỏi ràng buộc mình. Vì thế, Phật đặt vấn đề căn bản là thiểu dục tri túc. Càng hạn chế sự ham muốn, giảm bớt sự đòi hỏi thì càng được giải thoát. Chúng ta làm chủ được bản thân với điều kiện không nhờ vả nó. Yêu cầu của bản thân quá ít hay không có đòi hỏi gì, trong khi mức cung của chúng ta cho đời lại phát triển.

Yêu cầu và tham vọng được diệt sạch, tất nhiên sự xung đột với tham vọng, với cuộc đời, với thiên nhiên không xảy ra. Chẳng những không xung đột, chúng ta còn hài hòa với tất cả để chứng Pháp thân. Như vậy, dẹp bỏ tham vọng, tự trong sạch hóa chính mình, thì không cần đối phó chinh phục gì cả, mọi việc tự thành. Ngược lại, chỉ lo đấu tranh, chinh phục bên ngoài tạo thành thế xung đột; rồi lại tiếp tục đấu tranh nữa chăng. Trong khi chính bản thân mình không ra gì, đầy dẫy những thứ xấu xa tội lỗi mà muốn chinh phục đủ thứ; thật đáng thương hại.

Cổ nhân có nói “Các nhân tự tảo môn tiền tuyết. Bất quản tha nhân ốc thượng sương”, nghĩa là tuyết đầy ngập sân nhà mình mà không lo quét dọn, lại cứ lo chỉ trích nóc nhà thiên hạ phủ sương. Nói cách khác, chúng ta tu hành cần sửa mình, dọn tâm nhơ của chúng ta trước nhất. Khi bực bội, ham muốn khởi lên phải dập tắt ngay. Lo chạy ra ngoài xã hội, đánh mất bản tâm, là chính mình đã sai rồi. Lại lấy thêm tội lỗi của người khác tích lũy vào lòng mình, đến ngày nào đầy ắp thì nó tự bộc phát thành ngôn ngữ, cử chỉ và hành động tội lỗi của mình. Có thể nói đạo Đức Phật giáo là trau giồi đạo đức của chính bản thân. Đừng để miệng nói đạo đức mà cuộc sống hoàn toàn trái ngược, thật đáng buồn.

Thoát ly được sự chi phối bên ngoài, mới sống được với tự thọ dụng thân, sống với nguồn vui không thể diễn tả bằng ngôn ngữ. Hình ảnh tiêu biểu chính là cuộc sống của Phật luôn an lạc mỉm cười với chúng sanh, trong lúc cuộc đời thực sự chẳng có gì vui. Kinh gọi thế giới này là Diệu Hỷ, thế giới của những tâm hồn không bị gió trần lay động.

Từ thế giới Diệu Hỷ vô hình, Duy Ma là Bồ tát lớn thương nhân gian sanh lại cuộc đời. Tuy mang thân người, nhưng ngài không giống mọi người. Điều này phải chăng ngầm chỉ cho Phật Thích Ca có thân người nhưng khác người. Khác ở phần bên trong Ngài có đầy đủ Đại từ, Đại bi, Thập lực, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng, phiền não không còn.

Thật vậy, trước khi hiện thân ở Ta Bà, Ngài là Bồ tát Hộ Minh. Nghĩa là minh linh tánh, hay Phật tri kiến của Ngài được bao bọc bằng thân Tứ đại Ngũ ấm Thích Ca mang tặng cho đời. Phật biết rõ tiền thân của Ngài như vậy và Ngài đến thế gian theo mục tiêu đã dự định và chủ động mọi việc trong cuộc sống.

Còn chúng ta lớn lên theo biết bao vui buồn vinh nhục của đời đổ trút cho ta. Xét cho cùng, thân này do cha mẹ tác thành, xã hội nhồi nhét cho chúng ta đủ thứ ý niệm phân biệt phải trái. Mang những thứ mà ta không đồng ý để nhồi nặn lại thành Ta. Còn Ta thật là cái gì, có ai biết được.

Sự khác biệt giữa thân Tứ đại Ngũ ấm và chân thân gợi nhắc hành giả hiểu rõ hơn về phương tiện của Phật. Phật đã giải thoát hoàn toàn, nhưng thương nhân gian sanh lại cuộc đời; đó là phương tiện của Phật. Hoặc hiểu gần hơn, khi Phật thành đạo ở Bồ Đề đạo tràng đạt đến trí huệ tuyệt luân. Mọi loài không thể nào hiểu được, tiếp thu được thế giới tâm chứng này. Phật muốn truyền trao sở đắc cũng phải rời Bồ Đề đạo tràng xuống Lộc Uyển, tiếp cận chúng sanh.

Cũng vậy, Duy Ma ở thế giới Diệu Hỷ tịch tĩnh. Chúng sanh làm thế nào biết được ngài và ngài làm thế nào giáo hóa chúng sanh, nếu cứ an trụ trong Niết bàn tịch tĩnh. Thế giới thanh tịnh và thế giới sanh diệt cách ly nhau. Muốn giáo hóa chúng sanh Ta Bà, Duy Ma phải khai phương tiện, hiện thân lại ở thế giới Ta ba.

Cư tài chi sĩ

Cư gia chi sĩ

Tại gia chí Phật đạo giả.

Đó là hình ảnh cư sĩ Duy Ma với tấm lòng chí đạo không hề thua sút giới xuất gia, hay đúng hơn không kém Phật. Ngài đã đạt bản tâm thanh tịnh, nhưng hiện thân lại cuộc đời, có đủ tài sản để cúng dường chư Phật.

Ngày nay, cả hai chúng tại gia và xuất gia đồng tu phải tương ứng. Nếu chúng tại gia quá yếu, không có người hằng tâm hằng sản, có thế lực bên ngoài để hộ đạo, chúng ta không phát triển Phật đạo được. Hiện thân cư sĩ làm việc cúng dường là bước theo lộ trình thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh, nhằm duy trì Tam bảo tồn tại trên thế gian.

Dù Duy Ma sống với thật tướng các pháp ở bản thể, nhưng ngài tùy người, tùy chỗ, thị hiện trong đủ các ngành nghề của xã hội, để từng bước dìu dắt mọi ngươi tiến gần đến Vô thượng Chánh đẳng giác.

Trong mười hai năm đầu, Duy Ma xuất hiện ở thành Tỳ Xá Ly, chưa ai nghĩ đến Phật và đạo Phật. Chính Duy Ma cũng không xác định ngài là đệ tử Phật. Sự lặng thinh của Duy Ma về tư cách Phật tử của mình cũng là phương tiện của ngài. Điều này cũng gợi cho ta cân nhắc mỗi khi muốn nhân danh đệ tử Phật để làm gì.

Duy Ma dấu bặt tông tích của ngài. Mọi người trong thành Tỳ Xá Ly vẫn thấy ngài như một người bạn thân của mình. Ý này ngầm chỉ các Bồ tát xuất hiện trên cuộc đời không bao giờ vỗ ngực xưng tên. Các ngài âm thầm giúp đỡ người thăng hoa và lặng lẽ ra đi, để lại dấu ấn sâu sắc, khiến người liên tưởng đến Phật, Bồ tát. Đây cũng là cách sống của Phật Thích Ca trong bốn mươi chín năm thuyết pháp giáo hóa ở cõi đời. Ngài sống bình dị, không phô trương biểu diễn như hàng ngoại đạo. Nhưng Ngài nhập Niết bàn, để lại cho nhân loại một kho tàng vô giá, mở ra cho loài người con đường sống bất tử.

Duy Ma nhận chân được rằng ngài mang hình thức cư sĩ có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc phát triển những nét sáng đẹp tràn đầy ý nghĩa của Phật đạo. Điều đó tốt hơn là tự khoác lên mình chiếc áo xuất gia, chỉ làm vướng bận và hạn chế những bước tiến sinh động trên lộ trình vô ngã vị tha.

Với khối óc và đôi tay, Duy Ma đóng góp nhiều lợi lạc cho đời, thắp sáng ngọn đèn Chánh pháp trong tâm tưởng mọi người. Đó là cái thấy như thật của Bồ tát, thấy việc gì thành tựu lợi ích cho chúng sanh thì sẵn sàng xả thân thực hiện. Còn phương tiện hay hình thức thì đa dạng, tùy theo nhu cầu mà thay đổi.

Đối với Bồ tát, hình thức cư sĩ, xuất gia, Thanh văn hay Bồ tát, bất cứ vai trò nào chẳng qua chỉ là lớp áo đổi thay thay đổi không dừng trên sân khấu cuộc đời. Trong tâm niệm của các ngài luôn mong mỏi đem lại an lạc giải thoát cho người. Ý này được một danh Tăng diễn tả bằng câu “Phương tiện môn trung bất xả nhứt pháp”. Nói đến phương tiện thì thật vô cùng. Tuy nhiều vô số, nhưng phương tiện nào cũng đúng, vì nó đáp ứng được cho từng căn cơ, trình độ, hoàn cảnh khác nhau.

Duy Ma xuất hiện với tư cách cư sĩ nổi bật hơn xuất gia, để giới thiệu phương tiện của ngài là trí huệ và đạo đức. Ở trên cuộc đời, lời nói của người đạo đức mới có giá trị và người trí thức mới đủ khả năng để nói điều đúng, hay chân lý. Duy Ma trọn vẹn hai tư cách trí thức và đạo đức, đươc mọi người kính trọng và ngài vận dụng được mọi phương tiện hoàn hảo.

Trái lại, nếu hành giả thiếu trí huệ và đạo đức, thì phương tiện sử dụng sẽ trở thành nguy hiểm. Duy Ma vào đời truyền bá Phật pháp, cảm hóa người một cách nhẹ nhàng bằng bản tâm thanh tịnh giải thoát và sáng suốt của ngài. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng cư sĩ muốn thành tựu công đức như Duy Ma phải ở trình độ nào. Ở đây cư sĩ Duy Ma thành Phật rồi, vì thương nhân gian mà sanh lại, thì thân cư sĩ là phương tiện của Duy Ma để trợ hóa Phật. Hay chúng ta có thể hiểu thêm nghĩa khác nữa, Duy Ma chính là hiện thân của Phật Thích Ca. Thật vậy, hòa mình trong ba giới thượng lưu trí thức nòng cốt của xã hội và được kính nể như hàng lãnh đạo tài đức, Duy Ma đã thể hiện trọn vẹn tư chất trọng yếu của Phật là trí huệ. Dấn thân vào sống với dân nghèo làm người cha che chở, dạy dỗ nuôi nấng, cứu giúp họ, Duy Ma đóng trọn vẹn vai của Phật hiện hữu trên thế gian nhằm ban vui cứu khổ cho chúng sanh.

Nói chung, mọi tầng lớp xã hội trong thành Tỳ Xá Ly đều xem Duy Ma là Thầy. Ngài vận dụng tất cả phương tiện trên cuộc đời để xây đắp cho xã hội phát triển an lạc. Tuy hiện hữu như một người bình thường, nhưng thâm tâm Duy Ma tôn thờ các Đức Phật làm Thầy và ngài đã từng gần gũi cúng dường vô lượng Phật.

Trong mười hai năm, ngài hoàn thành xong hình ảnh của người con Phật với trí huệ tuyệt vời và tình thương bao la. Từ giai cấp Bà la môn, vua chúa, trưởng giả, cho đến người cùng đinh đều ghi đậm nét cảm tình và lòng khâm phục đối với ngài. Lúc ấy, Phật và các đệ tử mới đến thành phố này. Phải chăng Duy Ma đã đóng vai trò chuẩn bị, sắp xếp bối cảnh thuận tiện cho Đức Phật xuất hiện. Nói cách khác, Duy Ma không phải người nào xa lạ, ngài chính là hiện thân của Thích Ca Như Lai.

Ở dạng thể tánh, Duy Ma và Thích Ca tuy hai mà một. Trên mặt sanh diệt của cuộc đời, có Duy Ma; nhưng trên bản thể giải thoát trở thành Thích Ca. Mối liên hệ vô hình giữa Phật và Duy Ma mới là việc quan trọng.

Duy Ma làm tất cả việc nhân gian nhờ lực của Thích Ca Như Lai truyền đến. Lực Như Lai, hay cứu cánh của Phật Thích Ca thể hiện thành những phương tiện của Ngài với vô số cư sĩ gánh vác mọi việc.

Ở thành Tỳ Xá Ly, mọi người kính trọng Phật qua hình ảnh cư sĩ Duy Ma có trí huệ siêu việt và đạo đức thánh thiện. Bước chân vào đời, Duy Ma thực hiện được lợi lạc nào cho chúng sanh đều hồi hướng Phật đạo. Ngài vận dụng khéo léo tất cả pháp Phật dạy như Lục độ Ba la mật, Tứ nhiếp pháp, Tứ vô lượng tâm, 37 Trợ đạo phẩm trong việc hành đạo ở thế gian.

Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm cũng không ngoài những pháp này, một kho tàng Phật pháp vô tận mà Duy Ma ứng dụng một cách linh động và hữu hiệu vào cuộc sống thực tế. Ngài trở thành nhân vật trí thức gần gũi quần chúng, giải tỏa những khó khăn vật chất, tâm linh và thăng hoa cuộc sống cho họ.

Đóng vai trò trí thức luận đạo với Bà la môn, Duy Ma không thể mang hình tướng một Sa môn Phật giáo, vì Sa môn và Bà la môn là hai thái cực đối lập. Một bên tích lũy tài sản, một bên chủ trương vô sản. Hai lập trường này hoàn toàn khác biệt, khó cảm thông đàm đạo với nhau.

Đối với hàng vua chúa, võ sĩ, Duy Ma luận bàn chính trị rất chính xác, với tầm nhìn bao quát phổ cập sinh hoạt xã hội, kinh tế, văn hóa,… Họ kính trọng Duy Ma như một trưởng lão có tầm tri thức rộng lớn, nghĩa là một dạng khác của Phật, đầy đủ tài đức cố vấn cho họ trong việc trị nước an dân. Nếu đến với tư cách Sa môn, Duy Ma sẽ không tránh khỏi sự khinh bỉ của hạng người nhiều quyền thế ngã mạn này.

Ngoài hai giai cấp Bà la môn và Sát đế lợi nói trên, Duy Ma còn chỉ đạo cho giới kinh doanh, trong đó có năm trăm thương gia từ Hy Lạp đến thành Tỳ Xá Ly buôn bán phát đạt. Nếu khoác áo Sa môn, Duy Ma khó hành đạo trong môi trường nhiều toan tính của giới thương gia.

Không những lãnh đạo hàng vua chúa, ngoại đạo, thương gia, ngay cả đối với các Tỳ kheo, Duy Ma cũng thừa lệnh Phật chỉnh lý các Tỳ kheo lạc đường. Các Tỳ kheo quen sống theo lối mòn cũ được sự cung kính ở thành Xá Vệ, bước chân đến thành phố Tỳ Xá Ly phát đạt. Nơi đó, dân chúng có trình độ hiểu biết rộng lớn, không dễ dãi sùng kính Sa môn như ở thành Xá Vệ. Họ liền chạm trán ngay với cư sĩ Duy Ma.

Duy Ma cho những nhát búa sấm sét làm các Tỳ kheo phải khiếp sợ cư sĩ. Đó cũng là phương tiện của Phật nhằm gián tiếp dạy dỗ Tỳ kheo sơ phát tâm nhiều tự mãn. Tâm lý của người được sống đầy đủ dễ dàng thường hay ỷ lại, bướng bỉnh khó giáo hóa. Phật mới dẫn các Tỳ kheo đến thành Tỳ Xá Ly cho họ chạm trán với thực tế cuộc đời qua sự chất vấn của cư sĩ cự phách Duy Ma.

Các Tỳ kheo chợt bừng tỉnh, nhận ra yếu điểm và mang tâm hồn thua cuộc đau khổ về trình với Phật. Không có Duy Ma cho những bài học kinh nghiệm đích đáng ở đời, các Tỳ kheo vẫn tiếp tục nếp sống đóng khuôn, không chịu tiến thân.

Gánh vác việc làm mang sắc thái khác, Văn Thù Sư Lợi là mẫu người xuất gia có trí huệ cao tột không thể xuất hiện trong khung cảnh Tỳ Xá Ly. Chỉ có lớp áo cư sĩ Duy Ma thích ứng tốt đẹp cho bối cảnh như vậy.

Duy Ma giao thiệp rộng với đủ thành phần xã hội gợi cho chúng ta ý niệm về sự giao thiệp rộng của ngài để làm gì. Riêng chúng ta, tiếp xúc nhiều với người nhằm mục đích gì.

Suốt quá trình hiện hữu ở cuộc đời, Duy Ma luôn mang lợi lạc cho người. Sức sống mà Duy Ma vận dụng được ở đây là sức sống của chúng sanh. Nghĩa là con người còn tồn tại thì Phật và chư Bồ tát còn hiện hữu bên cạnh họ, một biểu tượng thế gian tướng thường trụ trong Duy Ma.

Khi Duy Ma thành tựu mọi việc tốt đẹp, sử dụng phương tiện một cách khéo léo xong, ngài mới xóa các phương tiện này để giới thiệu một cái gì xa hơn mà mọi người chưa biết đến. Đó là chân thân khác với giả thân.

Một lần nữa, Duy Ma lại sử dụng thêm phương tiện khác với những phương tiện trước. Ngài tuyên bố có bệnh. Bệnh là phương tiện của Bồ tát. Bồ tát sử dụng phương tiện thân bệnh, hay phương tiện chết để giáo hóa chúng sanh. Cũng vậy, Phật hiện thân trên cuộc đời, hay từ giã cuộc đời cũng đều là phương tiện. Vì cứu cánh của Ngài mang bản chất thường, lạc, ngã, tịnh, không có sanh tử, nhưng phương tiện hiện sanh tử. Phật nói: “Những người đáng độ đã độ xong, những việc đáng làm đã làm xong”.

Duy Ma cũng không đi ngoài lộ trình này. Những gì cần làm để hồi hướng Phật đạo, ngài đã hoàn thành. Ngài là người đi trước đến thành Tỳ Xá Ly để sắp xếp cho Phật Thích Ca xuất hiện. Và Phật Thích Ca là người đi trước ở Ta Bà để sắp xếp cho bổn Phật, hay Pháp thân Phật thuyết pháp.

Nếu Phật Thích Ca thuyết pháp mãi ở Ta Bà, chúng ta sẽ nhàm chán, nghe nhiều mà ít quan tâm vận dụng. Ngài vào Niết bàn để chúng ta lóng tai nghe bổn Phật thuyết pháp. Nói cách khác, Phật Niết bàn, chúng Tăng chới với, bắt buộc phải đối phó với mọi nghịch cảnh bằng cách tự nỗ lực phát huy trí huệ. Tự giải quyết thì trí thân mới sáng thêm. Nhờ vậy, từ Phật Niết bàn đến nay, các vị danh Tăng hiện hữu khắp mọi nơi tu hành đắc đạo, tỏa hương cho đời. Các ngài kiến giải kinh Đại thừa dưới mọi dạng thức, hợp thành Tam tạng giáo điển thật bao la và thật sâu sắc. Vì vậy, Niết bàn của Phật vẫn là phương tiện.

Ý này cũng được diễn tả trong kinh Pháp Hoa qua thí dụ lương y và cuồng tử. Những đứa con uống lầm thuốc độc nghe tin cha chết, cảm thấy côi cút, không còn chỗ nương tựa. Họ phải cố gắng khắc phục mọi khó khăn, tự vươn lên. Nếu người cha không chết, họ suốt đời ỷ lại sống dưới sự bao che, trở thành ngờ nghệch, dại khờ.

Duy Ma nói vì chúng sanh bệnh, ngài có bệnh; chúng sanh khỏe, ngài hết bệnh. Rõ ràng bệnh của ngài phát xuất từ tâm đại bi. Vì thực sự Ngài ở Niết bàn, nhưng thương chúng sanh bệnh ở nhân gian, mà hiện lên cuộc đời. Có thân thì phải có bệnh.

Bệnh hạnh là một trong năm hạnh của Bồ tát. Bồ tát có năm hạnh là thánh hạnh, thiên hạnh, phạm hạnh, anh nhi hạnh và bệnh hạnh. Bồ tát sống ở nhân gian vượt ra ngoài năm hạnh này, sẽ mất tư cách Bồ tát.

Bồ tát ở trên cuộc đời, không bị hạn cuộc trong việc làm cố định. Làm bất cứ việc gì cũng được, nhưng phải gợi cho người nhìn về Bồ tát, nghĩ đến Bồ tát, đều thấy thuần thiện. Đó là thánh hạnh. Hạnh cao quý này phát xuất từ bản tâm thanh tịnh, nên gọi là thiên hạnh.

Ngoài ra, Bồ tát còn có những việc làm, những hành động mô phạm cho mọi người là phạm hạnh. Tuy đầy đủ ba hạnh cao quý trên thế gian, nhưng Bồ tát phải kèm theo hạnh thứ tư là anh nhi hạnh; nghĩa là không bao giờ thấy mình lớn hay hơn người. Dù Bồ tát làm được mọi việc, nhưng luôn luôn biết kính trên nhường dưới. Bồ tát càng giỏi càng khiêm tốn, vì cảm nhận sâu sắc rằng sự thành tựu công đức là nhờ Như Lai lực truyền đến. Vì vậy, Bồ tát trong kinh Đại thừa muốn hỏi Phật điều gì, đều xác định nhờ nương theo thần lực, không phải tự mình.

Tròn đầy bốn hạnh, được mọi người thương yêu kính trọng, Bồ tát không hiện hữu ở đây chi nữa. Với tinh thần vô ngã vị tha, Bồ tát góp mặt lúc khó khăn, nhưng xong việc để phước lạc cho nhân gian hưởng. Bệnh hạnh là hạnh cuối cùng kết thúc bước chân hành đạo của Bồ tát. Phật dạy Bồ tát thành tựu mục tiêu, nên nhẹ nhàng ra đi. Chẳng có việc gì lưu giữ được Bồ tát trên thế gian này. Đối với Bồ tát, sự hiện hữu hay vắng bóng chỉ nhằm làm sáng đẹp cho đời.

Duy Ma xuất hiện ở thành Tỳ Xá Ly cũng không ngoài mục tiêu này. Sau khi nâng cao đời sống cho dân trong thành, ông mới thị hiện có bệnh. Duy Ma vận dụng phương tiện có bệnh để mọi người đến thăm ngài, thăm một người giàu có, sang trọng, nhiều uy tín đang bệnh, đối diện với cái chết. Bao nhiêu của cải, danh vọng, quyền lực của ngài đều sắp rũ sạch gợi lên cho mọi người ý tưởng kính trọng, thương mến, ham muốn. Lúc ấy, thời cơ mới đến để Duy Ma khai pháp. Nhất là lời nhắc nhở sau cùng của một người sắp chết thường lưu lại sâu đậm trong tâm hồn người nghe.

Duy Ma sử dụng phương tiện của ngài là bệnh, nên pháp mà ngài thuyết phải là pháp vô thường. Sắp chết nói vô thường, mọi người sẽ hiểu vô thường một cách sâu sắc hơn. Đó là bài pháp sống mà ngài thể nghiệm và phơi bày trước mắt mọi người, truyền thẳng đến con tim từng người đến thăm bệnh, tác động cho họ ý thức được cái gì thường hằng vĩnh cửu và cái gì luôn thay đổi không thể tồn tại.

Vì bệnh nên Duy Ma nhắm vô thân bệnh, hay thân con người mà thuyết pháp. Trước hết, Duy Ma quan sát thấy con người từ lúc sanh đến khi từ giã cuộc đời, giống như cây chuối không bền chắc. Con người khởi điểm từ sự chuyển hóa của tinh cha huyết mẹ, phát triển thành bào thai, cho đến khi mở mắt chào đời và mỗi ngày lớn lên. Nghĩa là từ vật nhỏ xíu biến chất, thay đổi, lột bỏ lần để có hình hài, rồi từ bên trong này bung ra để phát triển. Những gì trong cơ thể con người ngày hôm nay không phải của ngày hôm qua và cũng không phải là của ngày mai. Cứ như vậy, cơ thể mòn lần, cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Cũng giống như cây chuối lớn lần, đến ngày nào chúng ta lột hết bẹ, nó cũng không còn gì bên trong.

Điều thứ hai, Duy Ma quán thấy rằng mọi người sinh trên thế gian là do lòng khát ái. Và mang vào hình hài con người, lại tiếp tục lao công nhọc sức tìm cầu tham ái, thúc giục ta tạo muôn vàn tội lỗi. Chúng ta lao vào lợi danh tình ái chẳng khác gì người lữ hành đi trong sa mạc cổ khát bỏng, nhìn xa thấy ánh sáng phản chiếu của nắng tưởng như nước. Người càng tham đắm say mê hưởng thụ bao nhiêu, cổ càng khô bỏng bấy nhiêu.

Ngoài ra, hành giả quán thân như là mộng, là chiêm bao. Chúng ta hiện hữu trên cuộc đời và biến mất như một giấc mộng. Sự hiện hữu của con người trên cuộc đời chẳng khác nào giấc chiêm bao trên bản thể, nên khi chấm dứt hơi thở là chấm dứt một giấc chiêm bao dài. Vì vậy, kiếp người được coi là đại mộng.

Duy Ma từ thế giới Diệu Hỷ nằm mơ thấy ở Ta Bà làm bao nhiêu việc, sực tỉnh lại trở về thế giới Diệu Hỷ của ngài. Cũng như Diệu Âm Bồ tát ở thế giới Tịnh Quang bắt được ánh quang của Phật Thích Ca và biết được yêu cầu của Ta Bà, nên ngài xuất hiện với 84000 Bồ tát. Và xong việc, lại trở về thế giới của ngài. Đời là giấc mộng lớn. Bồ tát tỉnh giấc mộng lớn, trở về nguyên gốc của ngài là thế giới Phật. Chúng ta đầy nghiệp chướng tội lỗi, tỉnh giấc đại mộng, chúng ta sẽ về đâu.

Duy Ma còn ví thân Tứ đại như bọt nước bể khơi tan ra không còn gì. Nếu coi Tứ đại là của ta mà chấp ngã, thì chúng ta quá tham lam, không có trí huệ. Phật dạy Ngũ ấm vô ngã, thân này không có chủ, mọi người tự đặt ra và tự nhận của mình. Sự tồn tại của thân chỉ do vay mượn ăn nuốt lẫn nhau. Thí dụ đơn giản, chúng ta sinh tồn do tiêu thụ một số thức ăn. Khi thân này hoại, đem thiêu thành tro bụi. Lấy tro này bón cho dây tiêu. Lúc ấy, “cái ta” này trở thành thức ăn giúp cho dây tiêu lớn lên, sanh ra hột. Và chúng ta lại lấy hột tiêu ăn. Cứ như vậy, thân Tứ đại Ngũ ấm cộng hữu sanh tồn, phát triển, sinh sinh hóa hóa liên tục, không dừng, do nhiều nguyên nhân giả hợp mà thành.

Cuối cùng, Duy Ma dẫn thí dụ thân người như rắn độc, như kẻ trộm cứ đục khoét lần, cho đến khi cướp hết thánh tài của chúng ta. Để hiểu rõ ý nghĩa của thí dụ này, xin nhắc lại câu chuyện trong kinh Tạp A Hàm. Xưa có một ông vua bắt bốn con rắn độc bỏ vô hộp đưa cho người hầu cận. Hắn quá sợ, bỏ chạy. Vua sai năm người lính rượt bắt. Chạy một lúc, hắn ngó lại thấy phía sau có sáu tên ăn cướp đuổi theo. Chạy đến một khu phố không có bóng người, trước mắt là con sông rộng, không có cách nào thoát thân, hắn mới nảy sanh ra ý cắt khúc gỗ, lấy dây kết thành bè để qua sông.

Câu chuyện này theo kiến giải Đại thừa hàm chứa triết lý sâu xa liên hệ đến việc hiện hữu sinh hoạt của thân Tứ đại Ngũ ấm của con người. Khởi đầu, ông vua trao hộp cho người hầu cận, ví cho chúng ta từ bản thể tâm vương mà hiện hữu trên cuộc đời. Chúng ta mang đủ loại thân hình, hoặc hai chân, bốn chân, nhiều chân hoặc không chân.

Thân Tứ đại tiêu biểu cho bốn con rắn, vì chúng ta có thân phải chịu muôn ngàn đắng cay với nó. Tứ đại không điều hòa vì thiếu dinh dưỡng thành bệnh, phát triển quá mức thành bướu, hay tạo thành vô số bệnh hành hạ vô cùng khổ sở. Thân Tứ đại chẳng khác gì rắn độc đục khoét, làm cho chúng ta suy yếu bệnh hoạn. Phải làm thế nào điều hòa cả bốn anh dữ tợn này. Chúng ta hiện hữu trên cuộc đời, hay Bồ tát được Phật giao cho cái hộp có bốn con rắn này, cảm thấy khiếp sợ; nghĩa là mang thân Tứ đại, thì có vô số cơ man vấn đề được đặt ra cho chúng ta giải quyết.

Khởi đầu với thân Tứ đại, hay sắc chất và từ sắc chất mới nảy sinh ra tinh thần là Ngũ ấm thọ, tưởng, hành, thức, được thí dụ bằng hình ảnh năm anh lính đuổi theo. Như vậy, có thân thì chúng ta cứ bị ràng buộc sinh hoạt liên tục theo sự vận hành của Tứ đại Ngũ ấm diễn tiến trong vòng luân hồi của mắt xích Thập nhị nhân duyên.

Ngũ ấm là năm anh lính đuổi theo phải luôn để ý, hay đó là tâm chúng ta luôn bị vướng mắc, quay cuồng theo chuyến xe đời. Từ sáu giác quan của thân (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với Lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) sanh ra Lục thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức) mà trong chuyện thí dụ cho sáu tên ăn trộm đuổi theo; nghĩa là chúng ta sống lẩn thẩn khổ mãi với chuyện mắt thấy tai nghe.

Điều này nhắc hành giả đừng để tâm đến chuyện thị phi của thiên hạ. Ai làm gì mặc họ, hành giả cố gắng giữ cho ngôi nhà Ngũ ấm của mình thanh tịnh, trống trơn như xóm không người. Tuy có sáu giác quan hay có nhà, nhưng không có Lục trần tác ý, tức không có đối tượng, thì không thể thành nghiệp.

Từ xóm không người, nhìn thấy trước mặt dòng sông. Nói cách khác, từ thân Ngũ ấm thanh tịnh quán sát, chúng ta nhận rõ dòng sông mê này. Phật trao cho chúng ta tám khúc gỗ Bát chánh đạo kết bằng Lục độ Ba la mật để nhẹ nhàng vượt qua dòng sông ái tới Niết bàn được thường, lạc, ngã, tịnh.

Nói chung, phương tiện của Duy Ma tổng hợp được Tứ thánh đế là khổ của thế gian và Niết bàn của chư Phật. Duy Ma luận về pháp thế gian và xuất thế gian nhằm mục tiêu gợi cho mọi người ý thức về cuộc sống con người, tức khai tri kiến cho họ.

Duy Ma hỏi mọi người tới thăm thân Tứ đại Ngũ ấm của ngài, hay thăm một cái gì khác. Nếu chỉ có Tứ đại Ngũ ấm là thân thì ở đâu lại không có Tứ đại Ngũ ấm mà phải đến nhà ngài. Điểm này gợi ý ngoài thân Tứ đại, còn có một cái gì đáng quý hơn. Thân Ngũ ấm của con người không có gì đáng thăm, chỉ do nhân duyên giả hợp mà thành. Người đời vì quá tham lam, nhiều ham muốn, trở thành mờ mắt. Họ cho thân Tứ đại Ngũ ấm là thật và đến ngày nào không giữ được nữa thì lại càng khổ sở hơn.

Duy Ma ví sự giả hợp của thân người như cây chuối lột hết bẹ, như làn chớp, như bọt nước, như cảnh chiêm bao, như tiếng vang, như mây nổi, như cái bóng, như rắn độc, như kẻ cướp oán thù, như xóm không người. Và cuối cùng, ai mang thân người cũng phải già, bệnh, chết, rồi thân Tứ đại cũng trả về cho Tứ đại.

Nếu mọi người đến thăm Duy Ma vì cảm mến đức hạnh, muốn thăm cốt lõi của ngài, không phải thăm cái thân già bệnh, ngài sẽ nói về cốt lõi đó. Cốt lõi quý báu đó là Pháp thân, Báo thân của Duy Ma, hay đạo đức và trí huệ sáng suốt vận dụng được quy luật làm tốt cho đời, lợi ích cho người, tạo ấn tượng đẹp khi người nhớ nghĩ tới ngài.

Báo thân và Pháp thân theo Duy Ma là chân thân đối lại với giả thân. Giả thân Tứ đại tất nhiên có già bệnh chết. Duy Ma cho biết ngài khác mọi người, vì ngài thành tựu được chân thân. Còn khôn dại ở cuộc đời chưa chắc ai hơn ai, phần này Duy Ma từ bỏ đã lâu. Ngài chỉ sống với chân thân kết tinh bằng đạo đức và tri thức. Mọi người được ngài giúp đỡ cứ ngỡ rằng giả thân giúp đỡ. Nhưng Duy Ma khẳng định rằng chính đạo đức và tri thức của ngài, hay chân thân ngài đã phổ cập, tác động đến mọi người, mới quan trọng. Giả thân Tứ đại chẳng qua chỉ là phương tiện để chuyên chở đạo đức và tri thức mà thôi.

Duy Ma dùng phương tiện đó thuyết pháp gợi ý cho họ về chân thân bất tử của ngài. Giờ đây, phương tiện giả thân này sắp phải bỏ, ngài trở về với chân thân.

Duy Ma thành tựu tư cách làm Thầy thiên hạ, khi bệnh sắp chết, ngài mới giới thiệu Phật Thích Ca là Tôn sư của ngài đang ở vườn Yêm La. Điểm này tương tự như khi Phật Thích Ca Niết bàn, Ngài cũng nhắc nhở chúng ta còn Chánh pháp của Ngài để lại thì cũng không khác gì như có Ngài bên cạnh vậy.

Theo Duy Ma, cái đáng tôn kính là Pháp thân Phật kết tinh bằng trí và pháp. Phật được tôn danh là bậc Điều Ngự Trượng Phu, vì Ngài có bốn điều trọn vẹn tiêu biểu cho tất cả mọi việc trên cuộc đời hay Tứ vô sở úy, không ai có được.

Điều thứ nhất, Phật có Nhứt thiết trí vô sở úy, tức trí Phật tổng hợp trí thế gian, không điều gì trên đời mà Ngài không biết. Phật hiểu tất cả một cách chính xác, có tầm nhận thức vượt hơn người thế gian để chỉ đạo họ. Những gì Ngài nói ra đều phù hợp với chân lý. Vì vậy, Phật không sợ thế gian về phương diện tri thức.

Duy Ma vẽ ra cho mọi người trí huệ tuyệt vời của Phật như vậy và ngài tự nhận chỉ được một phần của Phật. Tuy nhiên, các trưởng giả đều thấy trí Duy Ma rất siêu việt. Đối với họ, thành Tỳ Xá Ly phát đạt thịnh vượng được chỉ nhờ Duy Ma. Họ chưa biết Phật.

Duy Ma gợi lên Nhứt thiết trí của Phật làm mọi người liên tưởng đến Nhứt thiết trí của Duy Ma. Điều đó, họ chưa hề nghĩ tới vì chỉ lo buôn bán giao dịch. Nay Duy Ma mượn Nhứt thiết trí của Phật để triển khai.

Duy Ma xác định chúng hội đến thăm cái gì họ không biết là thăm tri thức của ngài. Và ngài nhắc nhở mọi người rằng tri thức mới đáng quan tâm, suy nghĩ. Tất cả việc làm của người tu đều nhằm mục tiêu phát triển trí huệ, còn thân Tứ đại nào rồi cũng chấm dứt bằng cái chết. Chúng hội quý trọng ông già bệnh, vì quý trọng trí huệ tiềm ẩn trong thân ông. Không có trí huệ của Duy Ma chỉ đạo, gia nghiệp của họ như lâu đài xây trên cát.

Điều thứ hai, Phật có Lậu tận vô sở úy. Duy Ma giới thiệu Phật thánh thiện hoàn toàn. Từ bỏ cuộc sống vương tử, Phật xả thân, vào sống trong lòng xã hội, để tùy cơ giáo hóa. Phật không sợ người đời vì Ngài không phạm lỗi lầm nào với họ. Ngài không có một tỳ vết nào khiến ngoại đạo, tà ma chê trách được. Thân trong sạch này Duy Ma thường diễn tả như lưu ly, tức việc làm của Phật toàn thiện, không ai phê phán được.

Chẳng những không có lỗi lầm thế gian, mà cả lỗi lầm trong thiền định, Phật cũng đoạn hết. Sự trong sạch ở cảnh giới thiền định hay trên thánh vị, chúng ta khó đạt được dù trải qua nhiều đời. Mặc dù Duy Ma ca ngợi đạo đức thuần thiện của Phật, nhưng mọi người vẫn thấy Duy Ma là người cao thượng.

Điều thứ ba, Phật có Thuyết chướng đạo vô sở úy. Tất cả Sa môn, Bà la môn không đắc đạo, vì không thấy những chướng ngăn thánh đạo. Đối với các pháp tu, Phật phê phán sai lầm của người tu trước và những người đồng thời, nhất là sự nhận thức sai lạc của lục sư ngoại đạo được Phật đem ra phân tích rõ ràng. Họ không có Nhứt thiết trí, tất nhiên phải hành động sai. Như trường hợp Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, Ca Diếp là những giáo chủ của thần đạo. Phật nói thẳng sự sai lầm của họ và nghe xong họ đều phát tâm theo Ngài. Phật chỉ cho ngoại đạo thấy chướng đạo như giết súc vật tế thần chẳng lợi ích gì, ngoài việc tăng trưởng lòng ác. Không có thần minh, hay thượng đế nào có thể chấp nhận sự cầu nguyện như vậy. Thượng đế chỉ giúp người có lòng tốt. Từ trước họ hiểu sai, làm chướng ngại thánh đạo, đưa đến cùng mằn trí huệ.

Phật có sự hiểu biết cùng tột và đạo đức toàn thiện, mới dám nói thẳng vào sự sai trái của người nhiều quyền thế, mà họ không tức giận hay không hại được Ngài. Ta chưa đạt đến trình độ hiểu biết sâu rộng bằng Phật, chưa đắc đạo, thì khuyên người chỉ chuốc họa vào thân. Duy Ma nêu ra đặc tính Vô sở úy thứ ba của Phật, chúng hội cũng liên tưởng đó là việc làm của Duy Ma.

Điều thứ tư, Phật có Thuyết tận khổ đạo vô sở úy. Phật chỉ cho chúng ta thấy con đường sai lầm và con đường chân chính, tu thế nào để thành thánh, thành Phật, là vẽ ra ba con đường Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát. Duy Ma hội nhập vào lộ trình Bồ tát tuyệt diệu. Nói đến vô sở úy thứ tư của Phật, mọi người cũng nghĩ đến Duy Ma đã dìu dắt họ trên con đường Bồ tát bình ổn, an vui.

Duy Ma giới thiệu Phật đã thành tựu Tứ vô sở úy, hay nói rộng, Phật còn có Thập lực, Thập bát Bất cộng pháp, gợi cho mọi người có ý tưởng rằng Duy Ma cũng đầy đủ những nét đặc trưng như vậy.

Duy Ma thuyết pháp xong, chúng hội đều thấy Pháp thân đáng quý, sanh thân là giả thân không đáng kể. Sanh thân thay đổi, nhưng Pháp thân thường hằng. Trên bước đường như pháp tu hành, mỗi lần Bồ tát hạnh tăng trưởng, Pháp thân ta thăng hoa.

Khởi điểm từ đây, Phật đưa ra mẫu tiêu biểu để sau thuyết kinh Dược Sư. Với mười hai lời nguyện của Đức Dược Sư không tạo thành một Dược Sư bên ngoài nào khác, Phật ngầm chỉ thân trong suốt của Ngài. Hoặc Phật A Di Đà được xem là Phật vì có bốn mươi tám đại nguyện. Tất cả đều hình thành bằng bản nguyện và thể hiện bản nguyện. Đối với tôi, hình ảnh các Đức Phật do Ngài đưa ra đều là Phật Thích Ca, không phải Phật khác. Nếu có một vị Phật khác thì Phật Thích Ca trở thành một ông Phật khô chết hay sao.

Qua phần trình bày trên, chúng ta nhận thấy Duy Ma sử dụng hai phương tiện chính yếu. Phương tiện thứ nhất là Duy Ma từ thế giới thanh tịnh Diệu Hỷ muốn giáo hóa chúng sanh Ta Bà, phải xuất hiện trên cuộc đời mang thân Tứ đại y như mọi người. Nhưng Ngài khác người ở điểm lăn xả vào đời vận dụng Tứ nhiếp pháp để gần gũi và làm việc lợi ích cho người, không mệt mỏi.

Đến giai đoạn hai, Duy Ma dùng phương tiện bệnh để giảng về vô thường của giả thân và chỉ mọi người Báo thân, Pháp thân vĩnh hằng. Duy Ma đã sử dụng phương tiện đúng lúc, đúng chỗ.

Kinh điển đã ghi rõ như vậy. Tuy nhiên, điều tôi muốn lưu ý quý vị cần suy nghĩ tại sao lại phải nói phương tiện này và phương tiện này được đề cập đến vào thời kỳ nào. Nói cách khác, trong hoàn cảnh sống của Tăng Ni như thế nào mà hình thành kinh này. Chúng ta suy nghĩ và giải đáp cách nào cho phù hợp với khoa học lịch sử là vấn đề đặt ra.

Trong phần đầu đã xác định kinh Duy Ma thuộc hệ phát triển và được kiết tập sau Phật diệt độ vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Như vậy, muốn hiểu được vấn đề, chúng ta cần khảo sát ngược lại thời Phật tại thế và mang đối chiếu thời đại hoàng kim này với thực trạng cuộc sống trong thời Phật giáo phát triển.

Khi Phật tại thế, xã hội Ấn Độ chịu ảnh hưởng nặng tinh thần giai cấp, đặt dưới sự cai trị khắc nghiệt của bộ luật Manu, theo đó hai giai cấp thống trị là Sát đế lợi và Bà la môn có toàn quyền sinh sát hai giai cấp dưới. Phật nhìn thấy sự tồn tại của con người trong xã hội thời ấy là sự tồn tại bằng cách chà đạp tiêu diệt người khác.

Từ đó, Phật đưa ra phương tiện chỉ cho thấy các pháp đều là giả ảo, không cần tranh giành giết hại nhau làm gì. Ngài vẽ ra con đường thánh đạo, hay cách sống của Sa môn làm kiểu mẫu cho mọi người để hạn chế tham vọng. Và chính Ngài đi tiên phong trong cuộc sống bỏ tục xuất gia, gợi cho mọi người nhận thức ngôi vua cao quý tột đỉnh mà Ngài còn bỏ, huống chi những thứ lặt vặt tầm thường của chúng ta có ý nghĩa gì.

Khi thoát tục tu hành như vậy, lần hồi số người xuất gia theo Phật mỗi ngày một đông. Dù số Tỳ kheo tăng nhiều, sự cúng dường vẫn đầy đủ. Ngoài ra, tuy chủ trương sống thoát ly xuất thế, cuộc sống của Phật và thánh chúng đã ảnh hưởng mãnh liệt đến xã hội đương thời. Bước chân du hóa của Phật đến đâu, tịnh lạc an vui đến đó.

Tuy nhiên, Phật Niết bàn, chư Tăng trong thời bộ phái hoặc theo nếp sống u tịch để rồi bị cuộc đời lãng quên, hoặc ra hành đạo gây tranh chấp mâu thuẫn, rớt vào hơn thua tầm thường của thế nhân. Lúc ấy, Phật giáo chỉ còn hiện diện, kế thừa trên hình thức, danh tự. Như vậy, giới xuất gia càng đông, giá trị càng bị hạ thấp.

Chúng ta so sánh ảnh hưởng lực của Phật và thánh chúng với ảnh hưởng của Tăng đoàn thời kiết tập kinh Duy Ma, quả là cách nhau một trời một vực. Phật và thánh chúng thể hiện mô hình sống thánh thiện rực rỡ. Trái lại, Tăng đoàn thời bộ phái phân hóa trầm trọng và bị xã hội ghét bỏ. Với thực tại thê thảm đó của Phật giáo đem đặt vô khung cảnh thành Tỳ Xá Ly đang phát triển mạnh về kinh tế, tất nhiên không cần phải nói, thân phận của Tăng chúng trở nên rất mong manh.

Thật vậy, khi yêu cầu của xã hội là sản xuất. Vấn đề xã hội quan tâm là nâng cao đời sống vật chất con người, thì tu sĩ thoát ly, ngồi yên tiêu thụ dễ bị xã hội xếp vào lực lượng phi sản xuất. Chính vì sự tồn tại mong manh của Phật giáo trong giai đoạn này làm nảy sinh ý thức bung ra để đáp ứng yêu cầu xã hội lúc ấy. Đó là phương tiện sử dụng đẩy tinh thần Duy Ma lên.

Bấy giờ, giới xuất gia nhận chân rõ Phật giáo phải tồn tại trong cuộc đời, không phải cách ly đời, nằm ngoài cuộc đời. Đây là tư tưởng chính mà chúng ta bắt gặp trong kinh này và hình thành bằng sự hiện diện của Duy Ma.

Phật và thánh chúng tu hành ở vườn Yêm La, nhưng ảnh hưởng lực tác động cả thành Tỳ Xá Ly. Và ảnh hưởng đó được tiêu biểu qua hình ảnh cư sĩ Duy Ma. Hình ảnh Duy Ma là Tịnh Danh ở thế giới Phật Vô Động sanh lại, thường sống trong lòng xã hội, tiếp xúc mọi người, xây dựng làm đẹp cuộc đời, hay đó chính là sự nhắc nhở của kinh Duy Ma cho người xuất gia cần phát triển phần tu chứng nội tâm. Và chỉ dùng bản tâm thanh tịnh đi vào đời, tác động cho Phật tử tại gia để họ trở thành phần tử ưu tú trong mọi giai cấp. Không phải chúng ta mang cả thân xác Thầy tu vào đời để làm việc thế gian.

Phật cũng quy định rõ người xuất gia không được tham gia chính trị, thương mại, sản xuất. Chúng ta dùng tâm thanh tịnh ảnh hưởng cho Phật tử tại gia làm thay. Họ là chuyên viên, nhà giáo, nhà chính trị, nhà buôn, thợ thuyền,… Nói chung, hàng Phật tử tại gia thuộc các ngành nghề đóng góp lợi ích cho xã hội đều ủng hộ đạo Phật, nhất định đạo pháp sẽ phát triển mạnh.

Chúng ta còn nhớ thời Phật tại thế, giới xuất gia và tại gia phần nhiều thuộc thành phần ưu tú trong xã hội. Người giàu có như Cấp Cô Độc, hay người quyền thế như vua Tần Bà Sa La, vua Ba Tư Nặc đã ủng hộ giới xuất gia trí thức như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, tạo thành thượng tầng xã hội Phật giáo.

Nhưng Phật diệt độ, người tu khất thực xong, tìm rừng cây ẩn mình, không dính líu đến cuộc đời và người tại gia cũng không có ai được như Cấp Cô Độc hay Tần Bà Sa La, Ba Tư Nặc. Trong tư thế như vậy, Phật giáo có tồn tại chăng, cũng chỉ èo uột.

Vì vậy, ngọn gió Duy Ma thổi lên phục hưng con đường thánh đạo, làm hồi sinh những người xả tục xuất gia, đẩy họ rời khỏi ốc đảo củi mục ở bên lề xã hội, giúp họ tiến bước đến thế giới huy hoàng tràn đầy sanh lực của bậc xuất trần Thượng sĩ.

Bước vào đời hành đạo, Duy Ma đầy đủ tư cách giáo hóa chúng sanh, thành tựu ở những môi trường tương phản, ví như con rùa sống dưới nước cũng được mà lên bờ cũng hay. Nghĩa là Duy Ma đóng vai trò Bồ tát không trụ Niết bàn, không trước sanh tử. Ngài tự tại giải thoát thực sự, thể hiện tư chất Bồ tát vô sở đắc. Ngài hành đạo hòa hợp với chúng sanh, vẫn không đánh mất bản tánh cao thượng, luôn luôn là mô phạm chỉ đạo trong nhân gian.

Trước kia, Duy Ma dìu dắt những người tham đắm sinh tử như quốc vương, vương tử, Bà la môn; nhưng nay, ngài giảng dạy Sa môn, những người thích trụ Niết bàn. Hai hạng người thế tục và Sa môn ví như mặt trời mặt trăng không bao giờ gặp nhau. Họ không ở chung được, nên khi thuyết xong cho cư sĩ, Duy Ma dọn phòng trống tiếp Sa môn, vì Sa môn tu pháp Không. Chỗ trống này là tâm Không.

Sa môn nhận thức sai lầm về pháp Không. Đối với họ, Không là không có gì. Duy Ma chỉnh lý tư tưởng Ngoan Không này, chỉ cho họ nhận thức đúng đắn hơn. Không là không cố chấp việc làm của mình, không để tâm kẹt trong các pháp, dù là thiện pháp.

Tóm lại, khi Bồ Tát lãnh được tâm ấn và thể hiện việc làm kết hợp tâm họ với tâm Phật, mới thực sự tiến bước theo Bồ tát hạnh. Lúc ấy, nương giáo pháp Như Lai hành đạo lợi lạc cho chúng hữu tình. Dù khoác vào chiếc áo Tăng già hay cư sĩ đều nhận lãnh ý Phật mà hội nhập vào đời, tự tại tới lui trong vòng quỹ đạo của Phật.

Bồ tát Duy Ma với trí huệ tuyệt vời, đạo đức thánh thiện và việc làm cao cả, thể hiện trọn vẹn hình ảnh một Bồ tát thương nhân gian sanh lại cuộc đời. Ngài là người thay Phật giáo hóa chúng sanh.

Duy Ma xuất hiện ở thành Tỳ Xá Ly theo phương tiện của Phật. Nói cách khác, ngài là hiện thân của Thích Ca Như Lai trên cuộc đời, hay ngài là Tịnh Danh Bồ tát từ cảnh giới thuần tịnh bước vào thế giới Ta Bà sai biệt, hoàn toàn an trú trong bản thể chơn như mà ra vào khắp chốn sanh tử.

Khởi nguồn từ Tịnh Danh, ngài dấn thân trên vạn nẻo luân hồi theo ý muốn của chư Phật mười phương. Duy Ma là ngọn hải đăng trí huệ hòa hợp cùng nhịp điệu tâm linh của chúng ta, soi đường dẫn bước đưa ta qua sông mê bể khổ, đến bờ giải thoát an lạc vĩnh cửu.


66b95280279eec88f2c6c3d3d4af3e58

Hòa thượng Thích Trí Quảng (1938~)