Kinh Duy Ma Cật chương 11: Bồ Tát Hạnh
維摩詰所說經
- Published: 04 Nov 2021 20:44:45
- Modified: 03 Aug 2022 09:57:31
- Categories: Kinh Duy Ma Cật, Nội dung kinh Duy Ma Cật
- Tags: Cưu Ma La Thập, Huyền Trang, Thích Tuệ Sỹ
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh – Tập 14 – Số 475 (Kinh Tập Bộ)
Vimalakirti Nirdesa Sutra – 維摩詰所說經 – Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh
Nước Trung Hoa – triều Hậu Tần (384~417) thời kỳ Ngũ Hồ Thập Lục Quốc
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập (344~413) Hán dịch từ Phạn văn năm 406
Tham chiếu Thuyết Vô Cấu Xưng Kinh của ngài Huyền Trang (602~664)
Tỳ kheo Thích Tuệ Sỹ (1943~2023) Việt dịch từ Hán văn
Nhà xuất bản Phương Đông xuất bản năm 2008
daithua.com biên tập năm 2020
Chương 11:
BỒ TÁT HẠNH
Bấy giờ, Phật đang giảng pháp tại vườn cây Am La. Mặt đất bỗng hóa thành trang nghiêm và lớn rộng mênh mông. Tất cả chúng hội đều ánh sắc vàng ròng.
A Nan bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, vì sao có điềm lành này?
- Vì sao nơi đây bỗng trở nên trang nghiêm và rộng lớn và chúng hội đều ánh sắc vàng ròng?
Phật bảo:
- Vì Duy Ma Cật và Văn Thù Sư Lợi, với đại chúng đang cung kính vây quanh, khởi ý muốn đến đây, nên có điềm tốt lành này.
Lúc ấy, Duy Ma Cật nói với Văn Thù Sư Lợi:
- Bây giờ chúng ta hãy đến viếng Thế Tôn để chư Bồ tát có thể đảnh lễ cúng dường Ngài.
Văn Thù Sư Lợi nói:
- Lành thay, chúng ta hãy đến đó. Nay chính là lúc nên đi.
Duy Ma Cật liền dùng thần lực mang hết hội chúng và các tòa sư tử của họ trong lòng tay phải bay sang chỗ Phật ngự. Khi đến nơi, đáp xuống đất, Duy Ma Cật dập đầu đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu từ bên phải vòng quanh Ngài bảy lần, rồi chắp tay cung kính đứng sang một bên. Chư Bồ tát rời bảo tòa của họ để dập đầu đảnh lễ dưới chân Phật và cũng đi nhiễu vòng quanh Phật bảy lần, đoạn chắp tay cung kính đứng sang một bên. Các đại đệ tử Phật cùng với Đế Thích, Phạm Thiên và Tứ Thiên vương cũng rời bảo tòa của họ, dập đầu đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu vòng quanh Ngài bảy lần rồi chắp tay cung kính đứng sang một bên.
Thế Tôn theo pháp chào hỏi chư vị Bồ tát, rồi bảo họ ngồi lại các bảo tòa sư tử để nghe Ngài thuyết giảng. Đại chúng vâng lời dạy. Khi mọi người đã an tọa, Phật hỏi Xá Lợi Phất:
- Ngươi có thấy những gì được làm bằng thần lực tự tại của các Đại sĩ rồi chăng?
Xá Lợi Phất thưa:
- Bạch Thế Tôn, con đã nhìn thấy.
Phật hỏi:
- Ý ngươi nghĩ sao?
Xá Lợi Phất thưa:
- Thế Tôn, con thấy các ngài đã thực hiện những sự bất khả tư nghị, tâm người không thể nghĩ tưởng cũng chẳng thể đánh giá.
Lúc ấy A Nan bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, con nay nghe mùi hương chưa từng có trước đây.
- Đó là hương gì vậy?
Phật dạy:
- A Nan, đó là hương thơm toát ra từ chân lông của chư vị Bồ tát đây.
Lúc ấy, Xá Lợi Phất nói với A Nan:
- Chân lông của chúng tôi cũng có hương thơm như vậy.
A Nan hỏi Xá Lợi Phất:
- Mùi hương đó do đâu mà có?
Xá Lợi Phất đáp:
- Do cư sĩ Duy Ma Cật đã nhận cơm dư từ Phật ở cõi Chúng Hương, và ai ăn được cơm này ở nhà của Cư sĩ đều tỏa mùi thơm ngát từ các lỗ chân lông như vậy.
A Nan lại hỏi Duy Ma Cật:
- Mùi hương này kéo dài được bao lâu?
Duy Ma Cật đáp:
- Kéo dài đến khi tiêu hóa hết cơm.
A Nan hỏi:
- Hương đó tồn tại bao lâu?
Duy Ma Cật đáp:
- Thế lực của cơm này kéo dài đến bảy ngày. Sau một tuần mới tiêu hóa hết.
- Này A Nan, hàng Thanh văn chưa nhập Chánh vị mà ăn cơm này, khi nào nhập Chánh vị rồi cơm mới tiêu hết.
- Những người đã nhập Chánh vị ăn cơm này, khi nào chứng đắc tâm giải thoát cơm mới tiêu hết.
- Những người chưa phát tâm Đại thừa ăn cơm này, cho đến khi phát tâm Đại thừa rồi cơm mới tiêu hết.
- Những người đã phát tâm Đại thừa ăn cơm này, chứng đắc Vô sanh Pháp nhẫn rồi cơm mới tiêu hết.
- Những người đã chứng Vô sanh Pháp nhẫn ăn cơm này, cho đến Nhất sanh Bổ xứ cơm mới tiêu hết.
- Ví như loại thuốc có tên là thượng vị, uống vào cho đến trị dứt mọi thứ độc rồi mới tiêu hết. Cơm này cũng vậy, khi diệt trừ hết mọi thứ độc của phiền não thì mới tiêu hết.
A Nan thưa với Phật:
- Thật là chưa từng có!
- Bạch Thế Tôn, thứ cơm thơm này hẳn có thể làm Phật sự.
Phật bảo:
- Đúng vậy, A Nan, đúng như vậy. Có cõi Phật lấy ánh quang minh của Phật làm Phật sự. Có cõi lấy chư Bồ tát làm Phật sự. Có cõi lấy hóa nhân làm Phật sự. Có cõi lấy cây Bồ đề làm Phật sự. Có cõi lấy y phục, ngọa cụ của Phật làm Phật sự. Có cõi lấy cơm làm Phật sự. Có cõi lấy hoa viên, đền các làm Phật sự. Có cõi lấy ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Phật làm Phật sự. Có cõi lấy thân Phật làm Phật sự. Có cõi lấy hư không làm Phật sự; chúng sanh nhờ các duyên này mà có thể nhập luật hạnh.
- Hoặc bằng mộng, huyễn, ảnh, tiếng vang, bóng trong gương, trăng dưới nước, quáng khi trời nhiệt; bằng các thí dụ như vậy mà làm Phật sự. Hoặc bằng âm thanh, ngôn ngữ, văn tự mà làm Phật sự. Hoặc bằng cõi Phật thanh tịnh, tịch mịch vô ngôn vô thuyết, không hiển thị, vô thức, vô tác, vô vi mà làm Phật sự.
- Như vậy, A Nan, mọi hành vi thi thiết của chư Phật, mọi oai nghi cử chỉ, không có gì không phải là Phật sự.
- Này A Nan, có bốn loại ma này, 84000 cánh cửa phiền não này; chúng sanh vì thế mà khổ nhọc. Chư Phật bèn lấy ngay các pháp này mà làm Phật sự. Đó gọi là Pháp môn Ngộ Nhập Hết Thảy Chư Phật.
- Bồ tát khi nhập Pháp môn này, nếu thấy hết thảy cõi Phật thuần tịnh mà không vui mừng, không tham, không tự cao. Nếu thấy hết thảy cõi Phật bất tịnh, không buồn phiền, không bất mãn, hay thất vọng. Nhưng ở nơi chư Phật sanh tâm thanh tịnh, hoan hỷ cúng kính, cho là chưa từng có. Công đức của chư Phật Như Lai vốn bình đẳng, vì muốn giáo hóa chúng sanh mà hiện các cõi Phật không giống nhau.
- Này A Nan, ngươi thấy đất của các cõi Phật có nhiều chỗ khác nhau nhưng hư không chẳng có nhiều chỗ khác nhau. Cũng vậy, ngươi thấy sắc thân Phật tuy nhiều vẻ khác nhau, nhưng trí huệ vô ngại không có nhiều dạng nhau.
- A Nan, sắc thân của chư Phật, uy tướng, chủng tánh, giới, định, trí huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, lực, vô úy, các pháp bất cộng, đại từ, đại bi, oai nghi sở hành, cho đến thọ mạng, thuyết pháp giáo hóa, chúnh sanh được thành tựu, cõi Phật thanh tịnh, đầy đủ các Phật pháp, thảy đều đồng đẳng.
- Do đó gọi là Tam miệu Tam Phật đà, gọi là Đa đà a già độ, gọi là Phật đà. Này A Nan, nếu ta giảng đầy đủ ý nghĩa của ba danh hiệu này thì trải qua tuổi thọ của ngươi một kiếp cũng chưa nghe hết. Giả sử chúng sanh đầy cả Tam thiên Đại thiên thế giới đều như A Nan, đa văn đệ nhất, được tổng trì ghi nhớ; tất cả những người này trải qua tuổi thọ một kiếp cũng không thể lãnh hội hết.
- Vì vậy, A Nan, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật là vô hạn vô lượng, trí huệ và biện tài của các Ngài là bất khả tư nghị.
A Nan bạch Phật:
- Từ nay trở đi con không dám tự cho mình là người đa văn bậc nhất.
Phật nói:
- A Nan, chớ thối chí.
- Vì sao? Vì ta nói ngươi là người đa văn bậc nhất trong hàng Thanh văn chứ không phải Bồ tát. Nhưng hãy thôi, A Nan, bậc trí giả chẳng ai đo lường chư Bồ tát. Tất cả biển sâu còn có thể đo lường, nhưng thiền định, trí huệ, tổng trì, biện tài và công đức của Bồ tát thì bất khả lượng.
- Này A Nan, hãy gác lại các sở hành của Bồ tát. Với các thần thông lực mà Duy Ma Cật đã thể hiện hôm nay, hết thảy Thanh văn và Bích chi Phật dù có tận lực biến hóa trong trăm ngàn kiếp cũng chưa thể thực hiện được.
Bấy giờ, chư Bồ tát cõi Chúng Hương đồng cung kính chắp tay bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, lúc mới nhìn thấy thế giới này chúng con có ý tưởng nó thấp kém, bây giờ hối hận, chẳng còn ý đó nữa.
- Vì sao? Vì các phương tiện diệu dụng của chư Phật thật là bất khả tư nghị. Vì để cứu độ chúng sanh mà các Ngài tùy chỗ thích hợp thị hiện các cõi Phật khác nhau.
- Bạch Thế Tôn, nguyện ban cho chúng con chút pháp để khi trở về chúng con có thể luôn tưởng nhớ Như Lai.
Phật bảo các Bồ tát:
- Có Pháp môn giải thoát gọi là Hữu Tận Vô Tận Vô Ngại, mà chư vị nên học.
- Cái gì tận? Đó là pháp hữu vi.
- Cái gì vô tận? Đó là pháp vô vi.
- Chư Bồ tát, không đoạn tận hữu vi, không an trụ vô vi.
- Không đoạn tận hữu vi là thế nào?
- Là không rời đại từ.
- Không xả đại bi.
- Sâu sắc phát tâm cầu nhất thiết trí không giải đãi.
- Giáo hóa chúng sanh không hề biết mệt mỏi.
- Thường niệm thuận hành tứ nhiếp pháp.
- Hộ trì Chánh pháp không tiếc thân mạng.
- Vun trồng thiện căn không hề chán nãn.
- Chí thường an trụ phương tiện hồi hướng.
- Cầu pháp không lười.
- Thuyết giáo không tiếc lẫn.
- Vì cần mẫn cúng dường chư Phật nên vào chỗ sanh tử mà không sợ.
- Đối với các sự vinh nhục tâm không buồn không mừng.
- Không khinh người chưa tu học.
- Kính trọng người học như kính Phật.
- Giúp người đọa lạc trong phiền não phát sanh chánh niệm.
- Đối với lạc thú viễn ly mà không cho là quý.
- Không mê đắm lạc của riêng mình mà chúc mừng cho lạc của người.
- Trong các thiền định mà có ý tưởng như trong địa ngục.
- Ở trong sanh tử mà có ý tưởng như trong hoa viên.
- Thấy người đến cầu mình mà có ý tưởng như gặp bậc thiện sư.
- Xả bỏ tất cả sở hữu mà có ý tưởng là đầy đủ nhất thiết trí.
- Thấy người phạm giới liền khởi ý cứu hộ.
- Tưởng Lục độ Ba la mật là cha mẹ.
- Tưởng pháp trợ đạo là quyến thuộc.
- Phát hành thiện căn không giới hạn.
- Lấy sự trang nghiêm các quốc độ mà thành tựu cõi Phật của mình.
- Hành bố thí vô hạn để cho đầy đủ 32 tướng tốt.
- Trừ tất cả mọi điều ác để thanh tịnh thân, khẩu, ý.
- Trôi lăn trong sanh tử vô số kiếp cũng không nhụt chí dũng mãnh.
- Quyết tâm không mệt mỏi lắng nghe vô lượng công Đức Phật.
- Dùng kiếm trí huệ phá giặc phiền não.
- Siêu xuất uẩn, xứ, giới, để gánh vác chúng sanh khiến cho vĩnh viễn giải thoát.
- Lấy đại tinh tấn hàng phục ma quân.
- Thường cầu trí huệ thật tướng vô niệm.
- Hành thiểu dục tri túc mà không bỏ pháp thế gian.
- Không huỷ hoại oai nghi mà vẫn tùy thế tục khởi trí huệ thần thông dìu dắt chúng sanh.
- Được niệm tổng trì, không quên những điều đã nghe.
- Biết rõ căn tánh của chúng sanh khiến đoạn lìa nghi hoặc.
- Bằng biện tài lưu loát mà diễn thuyết không trở ngại.
- Thanh tịnh mười nghiệp đạo thiện, lãnh thọ phước báo của trời và người.
- Tu Tứ vô lượng để mở đường Phạm Thiên.
- Khuyến thỉnh thuyết pháp, tuỳ hỷ tán dương việc thiện, để được âm thanh của Phật.
- Khéo giữ thân, khẩu, ý để được oai nghi Phật.
- Thâm tu thiện pháp cho sở hành càng siêu việt.
- Bằng Đại thừa giáo mà thành Bồ tát tăng.
- Tâm không phóng dật để chẳng mất các thiện đức.
- Hành trì pháp như vậy là Bồ tát không tận hữu vi.
- Thế nào là Bồ tát không trụ vô vi?
- Tu học Không mà chẳng lấy Không làm chỗ chứng đắc.
- Tu học Vô tướng, Vô tác mà không lấy Vô tướng, Vô tác làm sở chứng.
- Tu học vô khởi mà không lấy vô khởi làm sở chứng.
- Quán vô thường mà không nhàm chán gốc thiện.
- Quán sự khổ của thế gian mà không chán ghét tử sanh.
- Quán vô ngã mà dạy người không mệt.
- Quán Niết bàn mà không vĩnh viễn tịch diệt.
- Quán viễn ly mà thân tâm vẫn thường hành việc thiện.
- Quán không có chỗ quy về mà tâm vẫn quy về thiện pháp.
- Quán vô sanh nhưng vẫn bằng sanh pháp mà gánh vác tất cả.
- Quán vô lậu mà không đoạn trừ các lậu.
- Quán không có chỗ sở hành mà vẫn hành pháp giáo hóa chúng sanh.
- Quán Không mà không xả đại bi.
- Quán Chánh pháp vị mà không theo lối Tiểu thừa.
- Quán các pháp hư vọng, không bền chắc, không người, không chủ, không hình tướng, nhưng vì bản nguyện chưa đầy nên không xem là hư dối các công đức, thiền định, trí huệ.
- Tu tập những pháp như vậy, gọi là Bồ tát chẳng trụ vô vi.
- Lại nữa, vì để đầy đủ phước đức nên không trụ vô vi.
- Vì để đầy đủ trí huệ nên không tận hữu vi.
- Vì đại bi, không trụ vô vi.
- Vì để viên thành bản nguyện, không tận hữu vi.
- Để gom tập pháp dược, không trụ vô vi.
- Để tùy bệnh cho thuốc, không tận hữu vi.
- Vì biết bệnh của chúng sanh, không trụ vô vi.
- Vì để diệt bệnh của chúng sanh nên chẳng tận hữu vi.
- Này các Chánh sĩ, Bồ tát sau khi đã tu pháp này, không tận hữu vi, không trụ vô vi; do đó gọi là Pháp môn giải thoát Tận Vô Tận, các ngươi nên học.
Bấy giờ, các Bồ tát kia sau khi nghe thuyết pháp này, thảy đều hoan hỷ, dùng các loại diệu hoa đủ thứ hương sắc rải khắp Tam thiên Đại thiên thế giới để cúng dường Phật và kinh pháp này, cùng chư Bồ tát. Sau đó, cung kính đảnh lễ chân Phật, tán thán là chưa từng được nghe rằng:
- Phật Thích Ca Mâu Ni đã có thể ở cõi này khéo léo thi hành phương tiện!
Nói xong, hốt nhiên biến mất, trở về cõi kia.