Skip to content

Kinh Duy Ma Cật chương 5: Văn Thù Sư Lợi Thăm Bệnh

維摩詰所說經

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh – Tập 14 – Số 475 (Kinh Tập Bộ)
Vimalakirti Nirdesa Sutra – 維摩詰所說經 – Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh
Nước Trung Hoa – triều Hậu Tần (384~417) thời kỳ Ngũ Hồ Thập Lục Quốc
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập (344~413) Hán dịch từ Phạn văn năm 406
Tham chiếu Thuyết Vô Cấu Xưng Kinh của ngài Huyền Trang (602~664)
Tỳ kheo Thích Tuệ Sỹ (1943~2023) Việt dịch từ Hán văn
Nhà xuất bản Phương Đông xuất bản năm 2008
daithua.com biên tập năm 2020

Chương 5:

VĂN THÙ SƯ LỢI THĂM BỆNH


Lúc ấy, Phật nói với Văn Thù Sư Lợi:

  • Ông hãy đi thăm bệnh Duy Ma Cật.

Văn Thù đáp:

  • Bạch Thế Tôn, với bậc Thượng nhân ấy, không dễ đối đáp. Vì ông đã thâm nhập thật tướng, thuyết giảng tài tình các yếu nghĩa của Phật pháp. Tài biện thuyết của ông thông suốt, trí huệ của ông vô ngại. Ông biết rõ Bồ tát đạo vì đã bước vào kho tàng huyền nhiệm của chư Phật. Ông đã hàng phục mọi tà ma; du hý thần thông, trí huệ và phương tiện đều sở đắc vẹn toàn.
  • Tuy vậy con sẽ vâng thánh chỉ đến thăm bệnh ông.

Bấy giờ, trong chúng, các vị Bồ tát, đại đệ tử của Phật; Đế Thích, Phạm Thiên, cùng bốn vị Thiên vương, thảy đều tự nghĩ:

  • Nay hai vị Đại sĩ Văn Thù và Duy Ma Cật gặp nhau, ắt sẽ nói pháp vi diệu. Cho nên 8000 Bồ tát, 500 Thanh văn và hàng trăm ngàn Thiên vương đều muốn đi theo Văn Thù Sư Lợi.

Vậy là Văn Thù Sư Lợi được chư Bồ tát, đệ tử Phật, hàng trăm nghìn trời và người đều muốn đi theo. Rồi thì, Văn Thù Sư Lợi cùng với đoàn tùy tùng cung kính vây quanh gồm các Bồ tát, chúng đại đệ tử, và các trời, nguời, cùng vào thành lớn Tỳ Xá Ly.

Lúc bấy giờ, trưởng giả Duy Ma Cật tâm niệm:

  • Văn Thù Sư Lợi và đoàn tùy tùng đang đến. Ông bèn dùng thần lực khiến cho nội thất trống rỗng. Tất cả đồ đạc cho đến gia nhân đều mất hết. Chỉ đặt mỗi cái giường bệnh để nằm mà thôi.

Văn Thù Sư Lợi đi vào nhà, thấy căn nhà trống không, không có gì cả, chỉ một mình Duy Ma Cật nằm trên giường bệnh.

Duy Ma Cật nói:

  • Xin chào ngài Văn Thù Sư Lợi. Ngài bằng tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy.

Văn Thù Sư Lợi đáp:

  • Thật như vậy, cư sĩ, nếu đã đến thì không còn đến nữa. Nếu đã đi thì không còn đi nữa. 
  • Vì sao? Đến, không từ đâu đến. Đi, không đi đến đâu. Cái đã có thể bị thấy thì không còn bị thấy nữa. Nhưng hãy gác việc này qua một bên. 
  • Cư sĩ, bệnh của ông, có kham nỗi không?
  • Việc điều trị thế nào, có thuyên giảm chứ không tăng phải không?
  • Thế Tôn ân cần gởi lời hỏi thăm vô lượng. 
  • Cư sĩ, vì sao ông mắc bệnh?
  • Đã lâu chưa?
  • Chừng nào sẽ hết?

Duy Ma Cật đáp:

  • Si và hữu ái là nguồn gốc của bệnh tôi. Vì hết thảy chúng sanh bệnh mà tôi bệnh. Bao giờ hết thảy chúng sanh đạt đến chỗ không bệnh, bệnh tôi sẽ hết. 
  • Vì sao? Bồ tát, vì chúng sanh mà đi vào sanh tử. Có sanh tử thì có bệnh. Nếu hết thảy chúng sanh được thoát ly bệnh khổ thì Bồ tát không còn bệnh. 
  • Ví như, vị trưởng giả chỉ có đứa con một; khi người con ấy bị bệnh, cha mẹ nó cũng bị bệnh. Nếu nó bình phục, cha mẹ nó khỏe. Cũng vậy, Bồ tát yêu thương chúng sanh như cha mẹ yêu con, nên chúng còn bệnh thì Bồ tát còn bệnh; khi chúng hết bệnh, Bồ tát khỏe! 
  • Câu hỏi tiếp theo là, bệnh của Bồ tát từ đâu phát sanh? 
  • Bệnh của Bồ tát xuất phát từ tâm đại bi.

Văn Thù Sư Lợi hỏi:

  • Sao thất này trống không và chẳng có người hầu?

Duy Ma Cật đáp:

  • Quốc độ của chư Phật nào mà chẳng trống không.

Lại hỏi:

  • Quốc độ của chư Phật do cái gì mà không?

Lại đáp:

  • Vì không nên không.

Lại hỏi:

  • Đã Không, cần gì Không nữa?

Lại đáp:

  • Vì vô phân biệt Không, cho nên Không.

Lại hỏi:

  • Không, có thể phân biệt ư?

Lại đáp:

  • Mọi phân biệt cũng không.

Lại hỏi:

  • Phải tìm Không ở đâu?

Lại đáp:

  • Phải tìm trong 62 Kiến chấp.

Lại hỏi:

  • 62 Kiến chấp phải tìm ở đâu?

Lại đáp:

  • Nên tìm trong giải thoát của chư Phật.

Lại hỏi:

  • Tìm sự giải thoát của chư Phật ở đâu?

Lại đáp:

  • Nên tìm trong tâm hành của hết thảy chúng sanh.

Và ông tiếp:

  • Ngài có hỏi sao tôi chẳng có gia nhân. Vâng, thì bọn ma và các ngoại đạo là gia nhân của tôi. 
  • Vì sao? Vì bọn ma ưa sanh tử mà Bồ tát chẳng xả bỏ sanh tử. 
  • Ngoại đạo ham Kiến chấp mà Bồ tát bất động trong mọi Kiến chấp.

Lại hỏi:

  • Bệnh của cư sĩ thuộc tướng gì?

Lại đáp:

  • Bệnh tôi vô hình, không thể thấy.

Lại hỏi:

  • Bệnh này hiệp với thân hay hiệp với tâm?

Lại đáp:

  • Nó không phải thân hiệp vì nằm ngoài thân. 
  • Cũng không phải tâm hiệp vì tâm vốn như huyễn.

Lại hỏi:

  • Trong Tứ đại, Địa, Thủy, Hỏa, Phong, bệnh thuộc đại nào?

Lại đáp:

  • Bệnh ấy không phải Địa đại cũng không lìa Địa đại. Thuỷ, Hỏa, Phong đại cũng vậy. Nhưng bệnh của chúng sanh phát sanh từ Tứ đại. 
  • Vì chúng sanh ấy có bệnh, nên tôi bệnh.

Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi hỏi Duy Ma Cật:

  • Bồ tát nên vấn an một Bồ tát đang thọ bệnh như thế nào?

Duy Ma Cật nói:

  • Nói về sự vô thường của thân mà chớ nói ghê tởm và từ bỏ thân.
  • Nên nói về thân khổ đau mà không nói Niết bàn an lạc.
  • Nói về vô ngã của thân mà vẫn nói về sự giảng dạy và hướng dẫn chúng sanh.
  • Nói về thân không tịch mà không nói rốt ráo tịch diệt.
  • Nói về sám hối tội lỗi trong quá khứ nhưng không nói nhập vào quá khứ.
  • Vì đã bệnh nên thương cảm người đang mắc bệnh kia. Biết rằng mình đã chịu đau khổ từ vô lượng quá khứ; mà làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh. 
  • Nên nghĩ nhờ phước mà mình đã tu mà suy niệm về mạng thanh tịnh. Chớ sanh buồn phiền bức rức, mà hãy thường xuyên phát khởi tinh tấn. 
  • Nên hành động như bậc y vương để cứu chữa bệnh người. 
  • Bồ tát nên an ủi một Bồ tát đang bệnh như vậy để khiến cho hoan hỷ.

Văn Thù Sư Lợi hỏi:

  • Làm sao Bồ tát đang bệnh chế ngự được tâm mình?

Duy Ma Cật đáp:

  • Bồ tát đang bệnh nên nghĩ rằng: Bệnh này đến từ những phiền não và vọng tưởng điên đảo của nhiều đời trước. Không có pháp nào là thật, vậy thì ai đang thọ bịnh? 
  • Tại sao vậy? Do Tứ đại hoà hợp mà giả danh là thân. Tứ đại vô chủ, thân cũng vô ngã. Vả chăng, bệnh khởi đều do bám chấp tự ngã. Vì vậy không nên bám chấp tự ngã này. Khi đã tỏ tường nguồn căn của bệnh, Bồ tát liền loại trừ tưởng về ngã và tưởng về chúng sanh, và tưởng; về pháp sẽ hiện khởi.
  • Bồ tát nên nghĩ như vầy:
    • Thân được hợp thành do bởi nhiều pháp. Khởi, chỉ là sự sanh khởi của pháp. Diệt, chỉ là sự huỷ diệt của pháp. Vả lại, các pháp này không nhận biết lẫn nhau. Khi sanh khởi, nó không nói, Ta khởi. Khi diệt, nó không nói, Ta diệt. Để diệt trừ tưởng về pháp này.
  • Bồ tát đang bệnh nên nghĩ:
    • Tưởng về pháp này cũng là một thứ đảo điên. Cái gì điên đảo, cái đó là đại hoạn. Ta phải rời xa nó.
    • Thế nào là rời xa? Rời xa ngã và ngã sở. 
    • Rời xa ngã và ngã sở nghĩa là sao? Rời xa pháp hai. 
    • Pháp hai nghĩa là sao? Là không nghĩ đến pháp trong thân lẫn pháp ngoài thân, mà hành nơi bình đẳng. 
    • Bình đẳng là gì? Đồng đẳng ngã, đồng đẳng Niết bàn. 
    • Tại sao như vậy? Vì ngã và Niết bàn đều không. 
    • Tại sao cả hai đều không? Vì chỉ là danh tự, cho nên là không. Hai pháp này như vậy không có quyết định tánh.
  • Đạt được tánh bình đẳng này rồi thì không còn bịnh nào khác ngoại trừ còn có cái bịnh của không. Cái bịnh của không cũng là không.
  • Bồ tát đang bịnh ấy tiếp thọ các cảm thọ bằng vô sở thọ. Tuy chưa thành tựu Phật pháp, nhưng vẫn có thể chứng nghiệm mà không cần diệt tận thọ.
  • Biết thân là đối tượng của khổ đau, ông nên nghĩ đến chúng sanh ở những cõi thấp kém hơn mà khởi lòng đại bi, rằng Ta đã được điều trị. Ta cũng sẽ điều trị hết thảy chúng sanh. Chỉ trừ bịnh chứ không trừ pháp. Chỉ dẫn chúng cắt đứt gốc rễ bịnh.
    • Gốc rễ của bệnh là gì? Đó là có vin níu. Từ chỗ có vin níu mà phát sanh gốc rễ của bịnh. 
    • Vin níu vào cái gì? Đó là ba cõi. 
    • Thế nào là cắt đứt sự vin níu? Bằng vô sở đắc. Nếu là vô sở đắc, thì không có sự vin níu. 
    • Cái gì là vô sở đắc? Là rời xa hai kiến. 
    • Hai kiến là gì? Nội kiến và Ngoại kiến. Đó là vô sở đắc.
  • Văn Thù Sư Lợi, đó là cách Bồ tát đang bịnh chế ngự tâm mình. Vì để cắt đứt cái khổ già, bịnh, chết, là Bồ đề của Bồ tát. Không làm được điều này thì sự tu trì của ông không có sự sắc bén của huệ. Cũng như, thắng kẻ địch mới gọi là dũng; cũng vậy, dứt trừ cùng lúc già, bịnh, chết, ấy mới là Bồ tát.
  • Bồ tát đang bịnh lại nên suy ngẫm: Bịnh ta không thực cũng không tự hữu. Bịnh của hết thảy chúng sanh cũng không thực và không tự hữu. Nhưng khi quán như vậy, đối với các chúng sanh mà khởi đại bi từ ái kiến, thì nên xả ly ngay. 
  • Vì sao vậy? Vì Bồ tát đoạn trừ khách trần phiền não mà khởi đại bi. Bi do ái kiến tức là có tâm mệt mỏi nhàm chán sanh tử. Xả ly được điều đó mới không có sự mệt mỏi chán chường, để dù tái sanh ở đâu cũng không còn bị ái kiến che lấp. Tái sanh ở đâu, đều không bị trói buộc để có thể giảng pháp và cởi trói cho hết thảy chúng sanh. 
  • Như Đức Phật đã nói: Không thể có việc tự mình bị trói mà có thể cởi trói cho người. Chỉ khi tự mình không bị trói, khi ấy mới có thể cởi trói cho người.
  • Cho nên, Bồ tát chớ tự trói buộc mình. Thế nào là trói buộc? Thế nào là cởi mở? Tham đắm vị ngọt của thiền là trói buộc của Bồ tát. Bằng phương tiện mà tái sanh, đó là Bồ tát cởi trói. Lại nữa, không có phương tiện huệ là trói buộc; có phương tiện huệ là cởi trói. Không có huệ phương tiện là trói buộc; có huệ phương tiện là cởi trói.
  • Không có phương tiện huệ là trói buộc, nghĩa là thế nào? Đó là với tâm ái kiến mà Bồ tát trang nghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sanh; tự điều phục mình trong pháp Không, Vô tướng và Vô tác. Như vậy gọi không có phương tiện huệ là trói buộc.
  • Có phương tiện huệ là cởi trói, là nghĩa thế nào? Đó là không đem tâm ái kiến mà trang nghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sanh; tự điều phục mình trong pháp Không, Vô tướng và Vô tác mà không mệt mỏi chán chường. Đó gọi là có phương tiện huệ là cởi trói.
  • Không có huệ phương tiện là trói buộc, là nghĩa thế nào? Bồ tát trụ tham dục, sân nhuế, tà kiến, các thứ phiền não, mà vun trồng gốc rễ các công đức. Đó gọi là không có huệ phương tiện là trói buộc.
  • Có huệ phương tiện là cởi trói, là nghĩa thế nào? Bồ tát đã xa lìa tham dục, sân nhuế, tà kiến, các thứ phiền não, mà vun trồng gốc rễ các công đức, rồi hồi hướng đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đó gọi là có huệ phương tiện là cởi trói.
  • Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát bệnh nên quán các pháp như vậy. Rồi lại quán thêm nữa. Quán thân này vô thường, khổ, không, phi ngã; đó gọi là huệ. Mà dù thân đang bệnh ông vẫn ở lại cõi sanh tử vì lợi ích của chúng sanh, không thấy mệt mỏi; đó gọi là phương tiện.
  • Rồi lại quán thân. Thân không lìa bịnh, bệnh không lìa thân. Ấy là bệnh, ấy cũng là thân; không phải mới, không phải cũ. Đó gọi là huệ. Giả sử thân mang bệnh, mà không cần dứt trừ nó vĩnh viễn. Đó gọi là phương tiện.
  • Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát bệnh nên chế ngự tâm mình như vậy. Không trụ trong đó; cũng không trụ nơi tâm không được chế ngự. 
  • Vì sao vậy? Vì trụ ở tâm không được chế ngự, là pháp của người ngu. Nếu trụ nơi tâm đã được chế ngự, đó là pháp của Thanh văn. Vì vậy Bồ tát chẳng trụ ở tâm được chế ngự hay không được chế ngự. 
  • Xa lìa cả hai; đó là hành của Bồ tát.
  • Khi ở sanh tử vẫn không hành ô uế; trụ nơi Niết bàn mà không vĩnh viễn diệt độ; đó là hành của Bồ tát.
  • Không theo hạnh phàm phu cũng không phải hạnh Hiền thánh; đó là hành của Bồ tát.
  • Hạnh không nhơ cũng không tịnh; đó là hành của Bồ tát.
  • Dù siêu quá hành của ma, vẫn thị hiện để khuất phục bầy ma; đó là hành của Bồ tát.
  • Cầu nhất thiết trí nhưng không cầu phi thời; đó là hành của Bồ tát.
  • Tuy quán các pháp bất sanh, vẫn không vào chánh vị; đó là Bồ tát hạnh.
  • Dù quán mười hai duyên khởi, vẫn hội nhập mọi tà kiến; đó là hành của Bồ tát.
  • Dù che chở hết thảy chúng sanh, vẫn không hệ luỵ bởi ái; đó là hành của Bồ tát.
  • Tuy vui với sự viễn ly, mà không y tựa vào sự diệt tận của thân và tâm; đó là hành của Bồ tát.
  • Dù đi qua ba cõi vẫn không hư hoại pháp tánh; đó là hành của Bồ tát.
  • Dù hành nơi Không, vẫn gieo trồng mọi công đức; đó là hành của Bồ tát.
  • Tuy hành Vô tướng vẫn cứu độ chúng sanh; đó là hành của Bồ tát.
  • Tuy hành Vô tác vẫn thị hiện thọ thân; đó là hành của Bồ tát.
  • Tuy hành Vô khởi vẫn khởi làm các hạnh thiện; đó là hành của Bồ tát.
  • Tuy hành trì Lục độ Ba la mật vẫn biến tri tâm và tâm sở pháp của chúng sanh; đó là hành của Bồ tát.
  • Tuy hành Lục thông mà không đoạn tận các lậu; đó là Bồ tát hạnh.
  • Dù hành Tứ vô lượng tâm, vẫn không tham đắm cầu tái sanh cung trời Phạm Thiên; đó là hành của Bồ tát.
  • Dù hành trì thiền định, giải thoát và Tam ma địa, mà không tùy thiền mà tái sanh; đó là hành của Bồ tát.
  • Dù hành trì Tứ niệm xứ, mà không hoàn toàn rốt ráo xa lìa thân, thọ, tâm, pháp; đó là hành của Bồ tát.
  • Tuy hành trì Tứ chánh cần mà không xả thân tâm tinh tấn; đó là hành của Bồ tát.
  • Tuy hành trì Tứ như ý túc, mà đạt tự tại thần thông; đó là hành của Bồ tát.
  • Tuy hành Ngũ căn mà phân biệt căn tánh nhạy bén hay trì độn của hết thảy chúng sanh; đó là hành của Bồ tát.
  • Tuy hành Ngũ lực vẫn phấn đấu thành tựu Thập lực, Vô úy của Phật; đó là hành của Bồ tát.
  • Tuy hành Thất giác phần mà phân biệt trí huệ của Phật; đó là hành của Bồ tát.
  • Dù hành Bát chánh đạo vẫn thích đi trên Phật đạo vô biên; đó là Bồ tát hạnh.
  • Dù hành pháp trợ đạo Chỉ và Quán mà rốt ráo không rơi vào tịch diệt; đó là hành của Bồ tát.
  • Dù hành các pháp bất sanh bất diệt vẫn trang điểm tự thân bằng các tướng hảo; đó là hành của Bồ tát.
  • Dù thị hiện oai nghi của Thanh văn hay Phật Duyên giác vẫn không xả pháp của Phật; đó là Bồ tát hạnh.
  • Tuy tùy theo tướng tịnh rốt ráo của hết thảy pháp mà vẫn tùy chỗ thích hợp thị hiện tự thân; đó là hành của Bồ tát.
  • Dù nhìn thấu hết thảy cõi Phật luôn tĩnh lặng như hư không, vẫn làm hiển hiện các loại cõi Phật thanh tịnh; đó là hành của Bồ tát.
  • Dù đã đạt quả vị Phật, có thể Chuyển pháp luân, và vào Niết bàn, vẫn không từ bỏ Bồ tát đạo; đó là hành của Bồ tát.

Duy Ma Cật giảng xong pháp này, hết thảy 8000 chư thiên đi theo Văn Thù Sư Lợi đều phát tâm cầu Giác ngộ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.